Tôi được nghe “Cáo tật thị chúng” vào ngày ông tôi mất, người lấy việc đọc sách làm thú vui tuổi già khi lâm bệnh cũng nhờ sách giảm đau. Giọng ông cao và run như cố át tiếng “oe oe” đầy sức sống của em bé mới sinh ba hôm từ dưới nhà vọng lên. Nó bướng bỉnh nhắc nhắc mọi người “Tôi có mặt” Ông bảo đặt tên nó Chi Mai rồi im lặng cho đến khi mất.
Nhiều năm qua tôi vẫn bàng hoàng trước bài kệ ấy. Lẽ nào vấn đề nặng nề muôn thuở vừa quen vừa lạ như tử sinh bỗng nhẹ tênh như cánh mai vàng rơi xuống màu vàng mênh mang của mùa xuân trong mắt thiền sư.
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Thiên nhiên hiện ra chung chung thường tình như một quy luật “ Xuân đi trăm hoa rụng. Xuân đến trăm hoa cười” Lòng tự hỏi – Sao sư không đảo ngược lại ? – Người đời thường nghĩ “khai” trước “lạc” Yêu hoa nỡ hắt hủi khi hoa tàn. Chú trọng sự rực rỡ viên mãn mà không thích héo tàn, rơi rụng. Phải chăng vì thế mà cuộc hóa sinh của con người còn nặng nề nhất trong muôn loài. Tâm vị thiền sư đời Lý Nhân Tôn có tên Lý Trường (1052-1096) được vua yêu trọng phải đạt đến độ thâm trầm mới được như vậy. Hết thảy sự vật trong vũ trụ đều ở trong vòng sinh hóa không ngừng. Vì hóa mà sinh lại vì hóa mà tử. Hoa nở cũng là Đạo mà hoa rơi cũng là Đạo.
Hai câu bằng nhau cặp từ Khứ – Đáo. Thế mà với bốn chữ đó trần gian đã quằn quại trong tử biệt sinh ly. Chuyện xưa có ông vua Ấn Độ hỏi một nhà sư : “Trên đời có gì lạ nhất ?” “Lạ nhất là chết mà cứ tưởng mình sống mãi” Nguồn sống vĩnh cữu vô biên “bất biến bất vi ứng” như nước chảy dưới cầu còn ta đang đứng trên cầu.
Khổng Tử nhìn bốn mùa qua lại, muôn vật sinh hóa phải thốt lên “ Thiên hà ngôn tai tứ thời hành yên. Bách vật sinh yên” Trang Tử xoạc chân gõ chậu hát khi vợ qua đời cũng chỉ hiểu sanh tử là lối vào ra của vạn vật. Đức Phật khi sắp nhập Niết bàn chỉ im lặng cầm cành hoa giơ lên. Đối với những bậc giác ngộ nhẹ nhàng thay chuyện đi ở sống chết. Nhưng người đời chằng chịt trong những quan hệ rối rắm thất tình lục dục, xem đó là bi kịch của kiếp người. Làm thế nào để sống thanh thản khi biết mình sẽ chết? Sư cũng là con người, có bệnh nghĩ về cái chết. Hữu sinh ắt hữu tử. Có nở ắt có tàn…Thiên nhiên với sự sinh hóa nhẹ nhàng đã nhắn con người điều đó.
Chợt nhớ thiền sư Chân Không (946-1061) khi trả lời câu hỏi của vị tăng : “Sắc thân này hủy nát thì thế nào?” Sư ứng khẩu :
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân
Vẫn những chữ khứ lai lạc khai nói về dòng chảy sinh hóa của con người. Con người không thể tách khỏi dòng chảy vĩ đại ấy nối tiếp nhau chảy đến vô cùng.
Vấn đề là làm sao chấp nhận dễ dàng điều đương nhiên ấy, đương nhiên mà vẫn bàng hoàng.
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Cánh hoa rơi. Nhẹ mà vẫn buồn !
Nỗi buồn ấy man mác thôi, nhưng ngọn gió hư vô cứ âm thầm luồn lách xương tủy trần thế.
Héraclite của Hy Lạp từng than : “Tout change, tout cacle !” Khổng Tử trước sự luân lưu bất tận ấy đã thở dài “Trôi chảy mãi thế ru, ngày đêm không thôi”
Còn sư :
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
10 chữ. Thuyền nhẹ chở đầy. Câu kệ chòng chành trên sóng nước dòng sông vĩnh cữu. Màu tóc trắng nhấp nhô.
Cuộc chuyển hóa lớn lao của vũ trụ trong đó có con người bé nhỏ. Chỉ mấy chữ mà mênh mang như biển. Hình ảnh vị thiền sư bị bệnh nằm bên cửa sổ chiêm nghiệm điều quá, điều lai. Thấm “Cổ nhân sầu bạch phát” Hương thiền vương hương tục, nỗi buồn vương câu thơ nhưng không làm nó chựng lại mà chỉ làm nó lãng đãng trước khi bay lên cao. Âm hưởng câu thơ như tiếng thở dài nhưng không u uất như Nguyễn Du
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
Cũng phải thôi. Thời đại họ sống khác nhau quá. Trong các triều đại phong kiến nhà Lý được đánh giá là triều đại thuần từ nhất. Đó chính là nhờ ảnh hưởng Phật giáo,. Vậy một thời đại có thể làm vơi bớt hay nặng thêm “bể khổ” kiếp người.
Có thể nói ý thức hệ “tam giáo đồng nguyên” của đời Lý đều được thiền sư Mãn Giác thấm nhuần. Triết lý thâm sâu của nhà Phật, vũ trụ quan Dịch của triết học Trung Hoa. Phong thái khinh phiêu cũa Lão Trang “lạc nhiên tri mệnh” lý nho gia ẩn lộ trong từng dòng kệ. Nhưng từ tri đến ngộ là cả một chặng dài. Một đạo sĩ Ấn từng nói “Trước khi học Thiền núi vẫn là núi. Được chỉ giáo núi không còn là núi. Khi giác ngộ núi trở lại là núi” Sư lại là sư. Bài kệ là biển nơi những con sông tư tưởng lặng lẽ đổ về hòa tan trong đó chỉ còn nghe nhịp thở của sóng. 34 chữ. Thế mà như đứng trước đại dương, bé nhỏ u minh không nghe hết điều sông núi. Nhỏ nhặt thường tình đấy mà bí mật vĩ đại. Đơn giản dường như không đáng lưu tâm bỗng trở nên lớn lao vô lượng.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.
Tưởng chừng mâu thuẫn thế mà không. Hủy diệt và bất diệt đều tất nhiên. Sống và chết đều kỳ diệu duy trì nguồn sống vô biên của vũ trụ. Biểu hiện qua sự tuần hoàn của thời tiết, nhịp điệu sinh thành hóa dục của muôn loài.
Văn thơ thiền không dụng ý nghệ thuật “Bất lập văn tự. Trực chỉ nhân tâm” để “kiến tánh” Đó là yếu chỉ của Thiền học. Vấn đề là chỗ độc đáo, thần diệu biểu hiện tâm linh giác ngộ nằm trong mớ ngôn từ bất-đặng-đừng của Thiền gia. Tôi chợt rùng mình đối diện với nó, với cành mai bé nhỏ từ trong bóng tối bao la và bí mật hôm qua trong cảnh xuân tàn
Chứ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai
Chính cành mai muộn ấy đã âm thầm khẳng định sự sống bất diệt, mùa xuân vĩnh hằng. Phải hiểu mai và yêu đời lắm Thiền sư mới để cành mai trong bài kệ trước khi mất. Mai chứ không phải loài hoa nào khác. Một cành chứ không phải cả vườn “Nhất chi mai” Chừng đó củng đủ phủ định “xuân tàn hoa lạc tận” Đứng đầu trong tứ hữu của người xưa, mai có vẻ đẹp không kiêu sa lộng lẫy. Nhưng nghìn chữ, trăm bài vẫn không nói hết cái đẹp vừa ẩn vừa tỏa của mai. Hội họa thơ văn đã “lụy” trước vẻ đẹp bền bỉ kín đáo, tao nhã dịu dàng ấy. Lục Du đời Tống đã viết trên 100 bài về mai vẫn chưa thấy nói hết. “Vịnh mai thi tập ẩm” gồm 289 bài chỉ viết về hoa mai. Tranh mực nước của Trọng Nhân vẽ những đóa hoa hoa mai đen- trắng tĩnh tại mà vẫn mặn nắng của đời. Loài hoa ấy thức dậy rất sớm để báo tin xuân ( Tảo mai) Loài hoa ấy vẫn còn khi “xuân tàn hoa lạc tận” (Vãn mai) Gầy guộc ấy mà không ngả nghiêng theo gió. Một cành đấy mà chẳng lẻ loi. Hoa nối hoa, nụ nối nụ, sắc vàng ẩn trong sắc xanh, u hương thoang thoảng liên miên bất tuyệt. Hoa rụng trái kết, trái rụng cây con mọc. Hiếm loài hoa nào có sức sống bền dai và hóa thân mạnh mẽ đến thế. Người yêu mai bởi “cái đức lớn trong hồn hoa nho nhỏ” Người mượn mai biểu hiện khí tiết phẩm hạnh của mình. Kẻ sĩ bất khuất Cao Bá Quát cũng phải hạ bút “ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
Có người dịch hai câu cuối muốn thêm chữ “nở” cho rõ ý. Thế nhưng thơ cổ hàm súc, ngôn ngữ kệ dè xẻn. Đôi khi thêm chữ thường dẫn đến hẹp nghĩa. Nở hay tàn mai vẫn là mai. “Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân” Bỗng nhớ đến bức tranh “Đạp tuyết tầm mai” trên chiếc lọ cổ trong một thiền truyện. Ông lão tìm được cành mai tuyệt đẹp trong non cao giá buốt. Khi về làng qua cầu ngoảnh lại chỉ còn là nhánh củi khô. Nhánh củi khô ấy sao mà giống bộ xương con cá khổng lồ trong “Ngư ông và biển cả” của E. Hemingway đến thế.
Còn lại phải chăng là cành-mai-trong-mắt-ông-lão mãi mãi đẹp ở khoảnh-khắc-vĩnh-cữu. Cành mai ấy vẫn lung linh tươi thắm theo dòng thời gian. Hương nhắn gửi sống thanh thản đi nhẹ nhàng. Ta ở ta đi không vĩnh biệt.
Có nhành mai ấy, mùa xuân của thiền sư sao mà xuân thế. Đích thị xuân ở sức sống kỳ diệu vĩnh hằng. Một hạt bụi !
Tôi chạnh nhớ một nhà thơ trong thời chúng ta trước lúc đi xa để lại trong “di cảo thơ”
Anh tồn tại
Không bằng tuổi tên mà như tro bụi
Như ngọn cỏ tàn đến tiết lại trồi lên
(Chế Lan Viên)
Cách ngần ấy thời gian thời đại lẫn ý thức hệ khác nhau lắm. Sao tôi thấy họ giống nhau thế. Họ đều thấy đằng sau sự hủy diệt là bất diệt.
Cành-mai-của-ông-tôi vẫn còn đó. Em Chi Mai đã có thêm một cành con nữa. Còn ông vẫn ở đằng sau khung ảnh nụ cười chừng phảng phất. Có lý chăng khi nói theo cách Thiền “Sự thực chết là sống”
Mãn Giác là một thiền sư “Cáo tật thị chúng” là một bài kệ. Sao tôi muốn gọi sư là một nhà thơ bởi bài kệ là một bài thơ đích thực. Không dụng ý mà vẫn đượm màu nghệ thuật, có cái gì hát lên ở đấy. Giữa bao la và bé nhỏ, bất biến và vạn biến. Đạo và Đời. Người và Sư.
“Giá trị như con sông càng sâu chảy càng êm” “Cáo tật thị chúng” là một dòng sông như thế. Chiều đến không ai ngăn được mặt trời lặn nhưng ngày mai lại thấy mặt trời. Cảm ơn Sư !
Khải Nguyên
(Sưu tầm và tổng hợp)
Nguồn: Tác giả gửi
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét