Thứ Sáu, 31 tháng 8, 2012

Gia đình Mai Thu Huyền gửi đơn đề nghị khởi tố hình sự nhiều bác sĩ

(GDVN) - Mặc dù đã có kết luận của hội đồng y khoa Sở Y tế Tp.HCM về nguyên nhân cái chết của bố Mai Thu Huyền nhưng bệnh viện FV đã “lật mặt”, tỏ thái độ thiếu tôn trọng, bất hợp tác để giải quyết thấu đáo sự việc này.

Mai Thu Huyền: Có đến 6 người của bệnh viện FV khiến bố tôi tử vong
Hàng chục nạn nhân tố cáo băng trấn lột bệnh viện
Bệnh viện FV đã gây nên cái chết của bố Mai Thu Huyền?


Bệnh viện FV vẫn tráo trở, “lật mặt”, chưa giải quyết thấu đáo sự việc.

Nhận diện virus ký sinh nguy hiểm: Lợi ích nhóm


Lợi ích, theo nghĩa hẹp, là sự theo đuổi và thỏa mãn ở mức nào đó nhu cầu sở hữu, chi phối, tiêu dùng và quản lý các tài sản, giá trị vật chất, tài chính và tinh thần của con người. Lợi ích chính đáng của cá nhân, tập thể và quốc gia luôn được pháp luật bảo hộ; Đồng thời, sự hài hòa các lợi ích này là mục tiêu và động lực của hoạt động có ý thức của con người nói chung, của phát triển kinh tế nói riêng trong xã hội văn minh.

Tháng Tám đi qua...


Ngày cuối cùng của tháng Tám, tất bật trong bếp chuẩn bị bữa trưa cho cả nhà, rồi lại nghĩ ngợi...

Hôm qua là một ngày nặng nề, bởi ngay từ sáng sớm đã đọc nguyên bản kết luận của Viện kiểm sát nhân dân tối cao công bố kết quả điều tra vụ án anh Nguyễn Công Nhựt chết tại đồn công an huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương.

Sau 18 tháng chờ đợi đằng đẵng trong im lặng, sau bao nhiêu cố gắng và nỗ lực của em Tuyền và gia đình, thì bản kết luận mà mọi người nhận được không khác gì kết quả đã công bố trước đó của công an tỉnh Bình Dương.

OBAMA HAY ROMNEY?


Tổng thống Hoa Kỳ là người làm thuê cho nước Mỹ nhằm làm cho nước Mỹ giữ được cường quốc số 1 dẫn dắt toàn cầu. Vài ngày qua, nước Mỹ sôi lên với chiến lược cạnh tranh vào nhà trắng của ông Mitt Romney thuộc phe Cộng Hòa. Trong khi ông Obama đang cần mẫn với cuộc vận động lặng lẻ ở các trường đại học. Nhưng liệu ai, giữa Obama và Mitt Romney sẽ là người ngồi vào nơi lãnh đạo toàn cầu?

Tuyên án thêm 1 kẻ chống phá Nhà nước



[Tập Viết Báo - Bản tin vắn trong ngày]
Tại TAND tỉnh Ninh Thuận ngày 29.8, Tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TP.HCM bác kháng cáo, giữ nguyên án sơ thẩm của TAND tỉnh Ninh Thuận tuyên phạt Phan Ngọc Tuấn (53 tuổi, ở P.Phước Mỹ, TP.Phan Rang-Tháp Chàm, Ninh Thuận) 5 năm tù về tội tuyên truyền chống phá Nhà nước.

Từ tháng 4.2010 - 8.2011, Tuấn đã móc nối, nhận tiền của một số tổ chức, cá nhân ở nước ngoài để viết nhiều tài liệu có nội dung vu khống, chống phá Nhà nước. Những tài liệu này được in thành nhiều bản phát tán ở Ninh Thuận, một số khu vực công cộng tại TP.HCM, Hà Nội.


Ngoài ra, Tuấn còn nhờ con trai mình tung đơn, các video clip có nội dung chống phá Nhà nước lên nhiều trang mạng.


Căn cứ vào lời nhận tội tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định cấp sơ thẩm đã xử đúng người, đúng tội nên quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm.


Thiện Nhân - TNO


 http://tapvietbao.blogspot.com/

Thế là hai vợ chồng cãi nhau


cho chim ăn

Mấy ngày lễ cuối tuần, ông bà Văn chả đi đâu cả. Vì lẽ, từ độ ông về hưu, nhà không êm ấm. Khổ nỗi, già lại còn ăn uống được. Thôi nghỉ cho khỏe. 

Tiếc xưa, lấy vợ vội vàng, "kiếp nạn" đã hơn 30 năm chưa hết, còn dài. Lòng những nhủ lòng, kiếp sau "đến lượt lão Tôn" sẽ khác...

Thấy guihuongchogio đăng mấy câu chuyện này. Chép lại để thanh minh, chứ ông Văn rất "kao thượng", chỉ số "ai cưu" kao.


@@@@@

Bà Văn hỏi: Trên TV có gì không ông?

Ông: Có rất nhiều bụi bậm, chắc tại bà quên lau.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
______________________
Cuối tuần, vợ tôi muốn đi đến một nơi thật đắt tiền.
Tôi chở bả tới tiệm bán xăng.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Đầu óc vợ tôi dạo này hơi nghễnh nghãng. Sau khi đi khám bác sĩ tâm thần về.
Tôi hỏi bả: Bác sĩ nói sao?
Bả nói: Bác sĩ bảo em làm việc và lo lắng nhiều quá, em cần được "yêu" mỗi tuần ba lần cho khuây khỏa và thoải mái. Mỗi thứ hai, thứ tư và thứ sáu.
Tôi nói: OK thứ hai, thứ tư anh chở em đi bác sĩ thì được, nhưng thứ sáu em phải gọi taxi vì anh bận họp hưu.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Ngày mai sinh nhật bà xã tôi, tôi hỏi bả muốn gì? Bả nói bả muốn một cái gì láng cóng, đi từ 0 tới 200 trong vòng 3 giây. Tôi mua cho bả cái cân nhỏ để trong phòng tắm.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Vợ tôi khỏa thân đứng trước tấm gương ngắm nghía 5 phút rồi bảo tôi: Em thấy hình như em ốm đi và giảm cân một chút phải không anh?
Tôi nói: Chắc em cần phải đi bác sĩ mắt khám lại.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
2_copy_copy - Copy - Copy - Copy
Vợ tôi khỏa thân đứng trước gương ngắm nghía 5 phút rồi bảo tôi: Sau hơn ba mươi năm lấy nhau, em thấy mình già hơn, mập hơn và xấu hơn trước nhiều phải không anh? Em buồn quá! Ơ... anh nói gì đi chứ.
Tôi nói: Tuy vậy mắt em vẫn còn tốt như hơn ba mươi năm về trước, khoảng 30/36.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
________________
Kỷ niệm ba mươi sáu năm cưới nhau, tôi hỏi bả muốn đi đâu.
Bả nói: Em muốn đi đến một chỗ mà từ lâu em đã không đặt chân đến.
Tôi nói: Ủa Em muốn vào trong bếp hả?
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
________________________

Vợ tôi hỏi: Anh ơi cái quần xanh này có làm mông em to hơn không anh?
Tôi nói: Ừa, nhưng mà không to bằng cái quần trắng hôm qua.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Tôi muốn mua một thùng Heineken giá $29.90, bà xã tôi không chịu vì mắc quá. Nhưng khi tôi thấy bả mua một lọ kem dưỡng da mặt cho đẹp giá $7.50.
Tôi nói: Em biết không sau khi hết thùng Heineken anh thấy em đẹp hơn nhiều.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Khi đi ngang qua tiệm Walmart, tôi mua 4 cái vỏ bánh xe hơi, Vợ tôi cằn nhằn.
Anh mua vỏ bánh xe làm gì, anh đâu có xe đâu.
Tôi nói: Chứ hồi nãy em mua 4 cái Xu-Chiêng anh có cằn nhằn gì em đâu. Bả nghĩ một lúc, hiểu.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
bưởi em còn to hơn đầu anh.Tôi nói: Sau ngày cưới em, anh thành TRIỆU PHÚ
Vợ tôi: Em hãnh diện quá. Có phải nhờ em, anh thành công không?
Tôi nói: Trước khi cưới em, anh là TỶ PHÚ.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
___________________________
Vợ tôi: Ngày cưới em có phải là ngày vui nhất đời anh không?
Tôi nói: Không! Chỉ là ngày vui hạng nhì thôi
Vợ tôi: Chứ ngày vui thứ nhất là ngày gì?
Tôi nói: Là cái ngày em cuốn gói dzề bên má em 3 tuần. Giời ơi ngày nào cũng xỉn.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Vợ tôi: Cuối tuần này là sinh nhật của anh. Em muốn anh có được một cuối tuần thật là vui vẻ hạnh phúc. Nói em nghe anh muốn gì nào?
Tôi nói: Sẽ không có gì làm anh vui và hạnh phúc nếu em cuốn gói dzề bên má em 3 tuần như lần trước.
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Trước ngày Tình Nhân vợ tôi nói: Đêm hôm qua, em nằm mơ thấy anh tặng em cái nhẫn hột soàn, thế nghĩa là gì hả anh?
Ngày lễ Tình Nhân tôi tặng nàng cuốn sách "Đoán điềm giải mộng".
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
Tôi đăng báo bán "Một quyển Tự Điển Bách Khoa Việt Nam, dầy 3.000 trang còn mới giá rẻ $10.00, lý do lấy dzợ tháng vừa rồi không cần nữa, có con dzợ cái gì nó cũng biết hết".
Thế là hai vợ chồng cãi nhau.
_______________________________________________
TL11Tôi với vợ tôi vào phòng khám bệnh Nha Khoa.
- Bác sĩ nhổ răng tốn bao nhiêu tiền vậy?
- $100.00.
- Ồ! đắt quá bớt được không?
- Nếu không dùng thuốc tê $80.00.
- $60.00 vẫn đắt.
- Nếu nhổ bằng cái kìm bình thường để nhổ đinh thì $40.00.
- Vẫn còn đắt.
- OK $20.00 nhưng học trò tôi sẽ nhổ chứ không phải tôi.
- Được ... Được Em! em mau mau ngồi xuống trước khi Bác sĩ đổi ý.
Lần này hai vợ chồng uýnh nhau chứ không cãi nhau.
_______________________________________________
Tôi hỏi: Tối hôm qua em đi đâu, suốt đêm không về?
Vợ nói: Em ở bên nhà con Phượng bạn thân em, đánh tứ sắc suốt đêm Tôi nói: Em học tánh nói láo từ hồi nào vậy? Anh ở bên con Phượng suốt đêm có thấy em đâu.
Lần này xuýt chút nữa phải gọi xe cứu thương, con dzợ gì đâu dữ dằn wá.

THẾ HỆ BỘ TRƯỞNG ĐANG " LẬT KÈO " DÂN ?

Thực hiện hai nhiệm cụ chiến lược: thi đẹp và thi hát!

Ngày mới nhậm chức, Bộ trưởng Vương Đình Huệ đã làm nức lòng người dân về những lời nói quyết liệt gần như tuyên chiến với các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu. Mình hâm mộ ổng đến mức viết một bài trên blog này ca ngợi hết lời, đại ý, chỉ cần hành động như ổng nói thì ổng đã có sau lưng hàng triệu triệu người VN ủng hộ.
Hôm nay mở blog ra, ngần ngại mãi, không biết có nên xóa entry đó đi không. Không xóa, mọi người đọc lại chắc mình xấu hổ lắm; xóa thì hóa ra mình là thằng...lật kèo ông Huệ? Thôi thì để vậy đi. Lý do để lại có vẻ hơi AQ khi tự ngụy biện, đâu phải mình mình đâu, báo chí ta cũng ca ngợi rào rào; thậm chí có tờ báo còn cất công về làng ổng làm phóng sự về tuổi thơ của anh Huệ, âm hưởng như thể ổng là cứu tinh của chúng ta!
Nhưng Vương gia đã...lật kèo với người tiêu dùng. Mới đây nhất, ổng còn cam kết từ nay đến cuối năm giá xăng dầu không tăng. Nói xong thì trong vòng 20 ngày, giá xăng tăng 2 lần. Hôm nay trả lời trên TT, ổng vẫn thản nhiên khẳng định, ổng hành động đúng!
Không chỉ tôi lật kèo ông Huệ (từ ca ngợi sang phàn nàn), ông Huệ lật kèo người tiêu dùng mà báo chí cũng...lật kèo bạn đọc. Vào thời điểm ông Huệ "tuyên chiến" làm rõ chuyện kinh doanh xăng dầu của 13 doanh nghiệp NN, báo chí ta xông vào, đấu tranh cho bằng được chuyện "thả" giá xăng cho thị trường, để doanh nghiệp tự quyết...Tôi mới đọc lại những bài đó, có dẫn lời một ông tổng của doanh nghiệp, kêu có thể giảm giá xăng nhưng vì giá phụ thuộc vào Bộ Tài chính nên không thể tự ý giám được. Bây giờ thả cho doanh nghiệp rồi, họ lại lật kéo, tăng giá liên miên, báo chí lại la làng, "không thể để doanh nghiệp định giá xăng dầu".
*
Giá xăng tăng khiến người dân khốn đốn, chỉ tính riêng chuyện các hãng taxi điều chỉnh lại đồng hồ cũng đã tốn bạc tỉ, 20 ngày điều chỉnh 2 lần thì khốn nạn cho họ qua. Nhưng mà, họ còn chưa khốn nạn bằng khách hàng, vì phí đó do khách hàng è lưng ra gánh.
Các doanh nghiệp lao đao lận đận, một số điêu tàn, số khác phải đi vay ngân hàng để duy trì hoạt động...Sản xuất kinh doanh có cảm giác như ngưng trệ toàn thân. Người lao động không có việc làm thì gửi gắm hy vọng vào vé số, số đề và các game show truyền hình...Cả nước từ trẻ đến già ào ào lao vào các cuộc thi gót-ta-lần, ai- đồ, dờ- voi, sao mai, các loại hoa khôi, hoa hậu, tiếng hát truyền hình, tiếng hát mãi xanh, việt nam nét-top-mo-đò...với hy vọng đổi đời. Có cảm giác cả nước đang tập trung thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: thi đẹp và thi hát!
*
Sáng nay hay tin, tờ Đất Việt đã bỏ ra 6 số/tuần để làm...1 số/tuần. Tờ báo hung hăng với tham vọng được xếp ngôi trong làng báo cuối cùng cũng ăn cầm hơi mà sống (chỉ vì sỉ diện mà không để dẹp tiệm mà thôi). Đây không phải là vấn đề của Đất Việt mà nó báo hiệu một "trào lưu" mới: Khi doanh nghiệp khốn đốn, miếng bánh quảng cáo teo lại, một số tờ báo không thể mãi lắt lay, không bắt cũng phải....tự chết!
_________________
Đăng bỡi: Tranhung09
-------------------------
Xăng bị đóng loại thuế như rượu!
 
Trong lúc kinh tế khó khăn thì quá nhiều loại thuế, phí tiếp tục đẩy giá xăng lên cao, trong đó vô lý nhất là thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB). Không thể chấp nhận được khi xăng cũng bị coi là “hàng xa xỉ” như rượu, thuốc lá...
Quá nhiều khoản thuế, phí vô lý khiến giá xăng đội lên quá cao. Ảnh: Diệp Đức Minh
Quá nhiều khoản thuế, phí vô lý khiến giá xăng đội lên quá cao. Ảnh: Diệp Đức Minh.

Ông Lương Hoàng Trung - Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM - cho rằng về nguyên tắc, giá bán lẻ xăng dầu được tính dựa trên cơ sở đảm bảo hài hòa lợi ích ba bên nhà nước - doanh nghiệp (DN) - người tiêu dùng. Tuy vậy, thực tế hiện nay là DN không bao giờ chịu lỗ, nhà nước thì luôn thu đủ các thuế, phí đã định. Cho nên mỗi khi có biến động giá dầu thế giới thì mọi thiệt thòi đều đẩy về phía người tiêu dùng.
Hàng thiết yếu bị đánh thuế tiêu thụ đặc biệt
 Bản chất của thuế tiêu thụ đặc biệt là thu trên các mặt hàng không khuyến khích sử dụng, hàng xa xỉ như rượu bia, thuốc lá... Trong khi đó, xăng là loại nhiên liệu thiết yếu nhất phục vụ cho nhu cầu lưu thông, sản xuất, được sử dụng đại trà và quan trọng nhất mọi sự biến động giá xăng đều tác động dây chuyền đến giá vận tải, giá cả hàng hóa  
Ông Lương Hoàng Trung
Phó chủ tịch thường trực Hiệp hội Vận tải hàng hóa TP.HCM
Trong bối cảnh giá xăng dầu không ngừng “leo thang” như hiện nay, theo ông Trung, cần có sự chia sẻ từ phía nhà nước bằng cách cân nhắc lại các loại thuế, phí đánh vào mặt hàng thiết yếu này. Hiện nay, mỗi lít xăng dầu phải “cõng” 12% thuế nhập khẩu, 10% thuế VAT, 1.000 đồng phí xăng dầu (còn gọi là phí giao thông), 1.000 đồng trích trả nợ tiền bù giá ngân sách, 200 đồng trích quỹ bình ổn. Đặc biệt với mặt hàng xăng còn bị đánh thêm 10% thuế TTĐB. Như vậy, trung bình mỗi lít xăng đang phải gánh đến 6.500 đồng tiền thuế, phí, tương đương gần 40% giá bán.
“Đây là một gánh nặng thực sự đối với người tiêu dùng, DN vận tải. Trong đó, một mặt hàng thiết yếu như xăng lại bị đánh thuế TTĐB là rất vô lý. Bởi bản chất của thuế TTĐB là thu trên các mặt hàng không khuyến khích sử dụng, hàng xa xỉ như rượu bia, thuốc lá... Trong khi đó, xăng là loại nhiên liệu thiết yếu nhất phục vụ cho nhu cầu lưu thông, sản xuất, được sử dụng đại trà và quan trọng nhất mọi sự biến động giá xăng đều tác động dây chuyền đến giá vận tải, giá cả hàng hóa. Thế mà lại thu thuế TTĐB với xăng và đánh đồng mặt hàng thiết yếu này với thuốc lá, rượu Tây... là không hợp lý và không đúng bản chất của loại thuế này. Do đó, cần nhìn nhận lại về mặt hàng xăng dầu và vai trò của nó trong đời sống xã hội cũng như sản xuất kinh tế để áp những loại thuế, phí một cách hợp lý. Nếu bỏ thuế TTĐB cũng là một cách để kéo giảm giá xăng hiện nay”, ông Trung nói.
TS Lưu Bích Hồ, nguyên Viện trưởng Viện Chính sách chiến lược, Bộ Kế hoạch - Đầu tư cũng nhận định việc thu thuế TTĐB đồng nghĩa với việc nhà nước hạn chế tiêu thụ xăng, một mặt hàng thiết yếu trong lưu thông, là không hợp lý.
Có thể sớm xin ý kiến Quốc hội
Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, rất cần thiết phải bỏ thuế TTĐB trong xăng. Nhưng do thuế TTĐB đã được quy định trong luật, muốn sửa luật phải chờ Quốc hội trong khi thuế nhập khẩu nằm trong tầm tay điều tiết của Bộ Tài chính, có thể giảm ngay và giảm sâu để giảm sức ép tăng giá xăng.
TS Lưu Bích Hồ cho rằng có thể sớm xin ý kiến Quốc hội để xem xét giảm, thậm chí bãi bỏ thuế TTĐB trong giá xăng. “Có cảm giác cơ quan quản lý chỉ tính toán kinh tế đơn thuần, mà không tính tới lợi ích chung để ổn định giá xăng dầu hơn, nếu tăng lên mãi sẽ rất phức tạp cho an sinh xã hội”, ông Hồ nhìn nhận.
Chuyên gia về giao thông Nguyễn Minh Đồng (Việt kiều Đức) đề nghị bên cạnh việc cân nhắc bỏ thuế TTĐB trong xăng, cần xem lại khoản trích cho quỹ bình ổn giá xăng dầu được thu từ nhiều năm nay. Về bản chất, quỹ bình ổn là khoản tiền tính vào giá bán xăng dầu và người tiêu dùng phải chịu, hay nói cách khác, người tiêu dùng phải ứng trước một khoản tiền để các DN đầu mối nhập khẩu xăng, dầu lập quỹ. Khi giá thế giới giảm, thuế nhập khẩu trong nước không tăng, DN có lãi thì phải trích vào quỹ bình ổn giá một khoản tiền theo quy định của Bộ Tài chính. Ngược lại, khi DN lỗ thì sẽ trích từ quỹ để bù lỗ. Song, thực tế những năm qua quỹ này gần như không có tác dụng gì trong việc điều tiết giá cả và thị trường xăng dầu.
Ngoài ra, theo ông Đồng, nếu so sánh với thế giới, xăng VN còn rất “đắt” ở phần chi phí và lợi nhuận cho DN xăng dầu. “Xăng ở các nước tiên tiến chất lượng tốt hơn gấp nhiều lần, đạt tiêu chuẩn Euro 5 - 6, trong khi xăng ở VN chỉ đạt Euro 2. Chi phí nhân công, thiết bị chuyên chở của các nước cũng đắt đỏ hơn VN (giá một chiếc xe bồn vận chuyển đạt tiêu chuẩn ở các nước châu Âu lên đến 1 triệu USD, lương của một nhân viên bán xăng cũng 3.000 - 4.000 USD/tháng). Ở VN, chất lượng thấp hơn nhưng giá xăng dầu vẫn đắt đỏ tương đương với các nước tiên tiến, như vậy vấn đề nằm ở chi phí và lợi nhuận của các DN kinh doanh xăng dầu hiện nay. Nói cách khác là bộ máy DN hoạt động kém hiệu quả và lợi nhuận DN còn mập mờ. Cần nói thêm, các hãng kinh doanh xăng dầu trên thế giới không bao giờ thua lỗ, thậm chí một hãng xăng dầu lớn của Mỹ còn có thể đạt lợi nhuận 34 tỉ USD/quý”, ông Đồng phân tích.
Sửa Nghị định 84, giám sát chặt DN xăng dầu
Theo chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long, sự rối loạn, thiếu minh bạch của thị trường xăng dầu đang đặt ra yêu cầu phải sớm sửa đổi Nghị định 84. Ông Long phân tích, Nghị định 84 sửa đổi phải minh bạch được 3 yếu tố lớn: ai định giá, giá cơ sở và lỗ lãi kinh doanh của DN đầu mối.
Về yếu tố “ai định giá”, quy định điều chỉnh theo 3 bước (0 - 7%) cho DN tự định giá, dù biên độ rất nhỏ nhưng vẫn là sai so với luật Giá, chưa kể DN chỉ cần lách quy định này, 10 ngày điều chỉnh 1 lần dưới 7% cũng đủ làm người tiêu dùng chóng mặt. Trên nguyên tắc, với các sản phẩm mang tính độc quyền như xăng, nhà nước vẫn phải định giá. Việc duy trì cơ chế nửa vời, lưỡng tính (cho DN tự định giá, nhưng vẫn phải xin ý kiến của nhà nước) dễ gây tiêu cực, điều phối không nhịp nhàng, mà hệ lụy phát sinh là tình trạng găm hàng vừa qua.
Đặc biệt, phải xem xét các yếu tố cấu thành giá cơ sở đã hợp lý chưa. "Đáng sợ nhất là có sự móc nối giữa cơ quan chức năng và DN độc quyền", ông Long nói.
Trong 9 yếu tố cấu thành giá cơ sở, thuế nhập khẩu có thể điều hành linh hoạt, nhịp nhàng theo thị trường. Việc điều hành cứng nhắc theo barem thuế hiện nay, đang gây nhiều khó khăn, bất cập cho DN, người dân và nền kinh tế. Ở những thời điểm khó khăn, nhà nước phải cùng chia sẻ, tháo gỡ khó khăn cho DN. Mặt khác, giá nhập khẩu của DN đang rất mập mờ. “Giá nhập khẩu được tính 30 ngày bình quân theo giá Platt’s Singapore, nhưng căn cứ tính giá này đã chuẩn chưa, khi DN đang nhập từ nhiều nguồn khác nhau, không chỉ riêng Singapore?”, ông Long nêu vấn đề. Theo chuyên gia này, giá nhập khẩu cần căn cứ dựa trên giá nhập khẩu thực tế của DN (việc kiểm soát có thể dựa trên số liệu từ hải quan).
Một chuyên gia khác cho rằng, cần quy định lại mức thù lao của đại lý, tránh tình cảnh chạy đua hoa hồng, dẫn tới đẩy chi phí giá thành của DN lên cao hơn nhiều so với quy định, gây khó khăn cho giám sát với lỗ, lãi thực của DN. Đồng thời, phải quy định rõ định mức hao hụt, không thể để DN tự xây dựng, ban hành và thực hiện, có nguy cơ đẩy định mức hao hụt lên cao, nâng chi phí kinh doanh.
Theo Thanh Niên
--------------------------------------------------------------------------------------

Nhìn lại 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới”

Motgocnhinkhac:

nvb Với những phát ngôn mạnh bạo cùng hành động quyết liệt, không né tránh, ngay từ khi mới nhậm chức, Vương Đình Huệ, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình nổi lên như những ngôi sao sáng, khiến dư luận kỳ vọng nhiều về “một luồng gió mới”, một nhiệm kỳ chính phủ mới trẻ trung, năng động, nhiều khác biệt. Đến BBC cũng kỳ vọng khi gọi những “hiện tượng” Vương Đình Huệ, Đinh La Thăng, Nguyễn Văn Bình là “một thế hệ Bộ trưởng mới”. Một năm qua, 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới” bây giờ ra sao?

          1. Vương Đình Huệ
          “Nếu doanh nghiệp nào không làm được thì rút lui. Kể cả Petrolimex, nếu không làm được chúng tôi sẵn sàng cho giải tán để lập tổng công ty khác. Nhà nước không dọa ai và cũng không ai dọa được Nhà nước... Không thể vì 11 doanh nghiệp xăng dầu đầu mối mà phải vì hơn 80 triệu dân... doanh nghiệp đừng có dọa cơ quan quản lý nhà nước, nếu cần tôi sẽ lập doanh nghiệp khác..."
          Tuyên bố nức lòng được ông Vương Đình Huệ tung ra ngay khi vừa ngồi ghế Bộ trưởng Tài chính.
          Gần một năm qua, hoạt động của các doanh nghiệp đầu mối xăng dầu vẫn y nguyên, thậm chí còn có xu hướng lũng đoạn hơn. Câu chuyện xăng dầu vẫn lùng nhùng, giá cả lên xuống nhập nhằng. Mỗi khi doanh nghiệp kêu lỗ thì tình trạng găm hàng, ngừng bán lập tức xảy ra trên diện rộng. Ngay cả việc minh bạch lỗ lãi, giá nhập khẩu hàng của các doanh nghiệp đầu mối... cũng vẫn tù mù như ma trận.
          Chẳng thấy doanh nghiệp nào bị giải tán, cũng chẳng có doanh nghiệp khác nào được thành lập như cam kết hùng hồn của Bộ trưởng Vương.
          Thực tế khác xa với những tuyên bố của Vương Đình Huệ. Hay nói thẳng ra là ông bất lực. Để chống lũng đoạn các mặt hàng chiến lược, cho dù mới chỉ  “thử” với xăng dầu, có vẻ như Bộ trưởng Vương đã bị “tẩm xăng đốt cháy” đúng như lo ngại của nhà báo Huy Đức trước đây.
          2. Đinh La Thăng
          “Tôi là người máu lửa, đã làm phải ra làm, nếu không là nghỉ... Là tư lệnh ngành, phải cho tôi toàn quyền như vị tướng ra trận, phải được toàn quyền quyết chiến đấu hay không, tiến hay lùi thì mới làm được. Chứ lại cứ ra vào để xin phép thủ trưởng ở nhà có cho em bắn không, sau bảo không được thì chậm mất, lỡ cơ hội".
          Trong lớp Bộ trưởng mới, Đinh La Thăng nổi lên như một ngôi sao sáng, một “hiện tượng” gây sốc với những hành động quyết liệt và phát ngôn táo bạo (nhiều khi liều lĩnh, ẩu tả).
          Phải thừa nhận ông là con người nhiệt huyết. Nhưng sự nhiệt huyết trong khí chất của một gã Bí thư đoàn, cộng với tư duy làm tiền của một “thằng” giám đốc doanh nghiệp trong ông đã biến Đinh La Thăng thành một con rối trên chính trường. Từ một nhân vật được kỳ vọng nhiều, ông thành vị Bộ trưởng bị dân chửi nhiều nhất. Lịch sử chưa thấy Bộ trưởng nào lại bị dân chửi thậm tệ đến thế. Các chủ trương, quyết sách từ ông luôn tạo nên những làn sóng giận dữ và chửi bới thậm tệ. Đến mức dư luận có lúc phải đặt câu hỏi: hay bộ trưởng Thăng có vấn đề về... thần kinh?
          Theo kết quả thăm dò trên website Trương Duy Nhất- Một góc nhìn khác, có đến 95% ý kiến của hơn 1 vạn bạn đọc phản đối những chủ trương trái khoáy của Đinh La Thăng và 90% ý kiến đòi bãi nhiệm ông.
          3. Nguyễn Văn Bình
          “Là một đại diện cho thế hệ lãnh đạo mới của chính phủ, cùng với Bộ trưởng Giao thông Đinh La Thăng hay Bộ trưởng Tài chính Vương Đình Huệ, Thống đốc ngân hàng Nguyễn Văn Bình gây ấn tượng với dư luận ở những quyết định nhanh chóng, quyết liệt và hiệu quả ngay sau khi nắm quyền”
          Với nhận định ấn tượng trên, Thống đốc Nguyễn Văn Bình được bạn đọc VnExpress bình chọn là nhân vật của năm 2011”.
          Ông Bình được đánh giá cao bởi những nỗ lực tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, khởi đầu bằng việc “dẹp loạn” vượt trần lãi suất và định hướng hợp nhất, sáp nhập các ngân hàng.
          Kết quả một năm tái cấu trúc của ông Bình đến đâu?
          Sự kiện bầu Kiên đã cho thấy dường như cả một hệ thống ngân hàng như một lâu đài cát. Chiến dịch tái cấu trúc của ông Bình đã hở sườn. Chỉ một “cú sút bầu Kiên” đã làm rúng động cả hệ thống ngân hàng. Lần đầu tiên, Thủ tướng chính phủ phải lên tiếng yêu cầu ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật được cho là “nhằm thâu tóm và gây mất ổn định trong hoạt động ngân hàng”.
          Từ một “nhân vật của năm” nhiều kỳ vọng, ông Bình trở thành vị Thống đốc để tại ảnh hưởng tồi tệ nhất trong lịch sử.
          Dựa trên kết quả kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quản lý lãi suất, tạp chí Global Finance vừa xếp Thống đốc Nguyễn Văn Bình của Việt Nam là 1 trong 10 vị Thống đốc kém cỏi và tồi tệ nhất thế giới.
          Chỉ với 3 ngôi sao sáng của “thế hệ Bộ trưởng mới” như thế, đủ nói lên chất lượng chính phủ thế nào.
          - Bấm đọc lại bài: Chất lượng chính phủ: quá tệ!
--------------------------------------------------------- 

10 thống đốc ngân hàng trung ương kém nhất năm 2012

30-8-2012 (VF) – Tạp chí Global Finance dựa trên kết quả kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và quản lý lãi suất của các ngân hàng trung ương đã đưa ra danh sách 10 thống đốc NHTW có màn trình diễn tồi nhất năm 2012 (BI, 27-8).

Mercedes Marcó del Pont, Argentina

  • Xếp hạng 2012: D
  • Xếp hạng 2011: D
  • Lạm phát cơ bản: 9,8%
  • Thất nghiệp: 7,5%
  • Lãi suất cơ bản: 14,125%

Pedro Delgado, Ecuador

  • Xếp hạng 2012: D
  • Xếp hạng 2011: NA
  • Lạm phát cơ bản: 5,09%
  • Thất nghiệp: 5,19%
  • Lãi suất cơ bản: 0,2%

Masaaki Shirakawa, Japan

  • Xếp hạng 2012: C-
  • Xếp hạng 2011: C
  • Lạm phát cơ bản: 0,2%
  • Thất nghiệp: 4,4%
  • Lãi suất cơ bản: 0,1%

Duvvuri Subbarao, India

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: B
  • Lạm phát cơ bản: 7,0%
  • Thất nghiệp: 3,8%
  • Lãi suất cơ bản: 8%

Andras Simor, Hungary

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: C
  • Lạm phát cơ bản: 3,49%
  • Thất nghiệp: 11%
  • Lãi suất cơ bản: 7%

Kim Choongsoo, South Korea

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: C
  • Lạm phát cơ bản: 1,36%
  • Thất nghiệp: 3,1%
  • Lãi suất cơ bản: 3%

Nadezhda Ermakova, Belarus

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: N/A
  • Lạm phát cơ bản: 10,5%
  • Thất nghiệp: 1%
  • Lãi suất cơ bản: 12%

Gill Marcus, South Africa

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: C
  • Lạm phát cơ bản: 4,42%
  • Thất nghiệp: 24,9%
  • Lãi suất cơ bản: 5%

Nguyen Van Binh, Vietnam

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: N/A
  • Lạm phát cơ bản: 5%
  • Thất nghiệp: 2,29%
  • Lãi suất cơ bản: 9%

Riad Salameh, Lebanon

  • Xếp hạng 2012: C
  • Xếp hạng 2011: A
  • Lạm phát cơ bản: 6%
  • Thất nghiệp: 9,7%
  • Lãi suất cơ bản: 10%

*  GF đánh giá dựa trên thông tin của Bloomberg và Citi là những nguồn nắm sát thị trường và có giao dịch thường xuyên với cộng đồng kinh doanh, dân cư toàn cầu. Họ cũng hiểu rõ sự vận hành của các NHTW phải thế nào mới được gọi là đáp ứng các tiêu chuẩn phục vụ quốc kế-dân sinh.
 

Thái Lan dẹp loạn tham nhũng


Hãy bay với hai cánh vào Hiện đại

Thưa Quý Vị,
Thưa các bạn đồng nghiệp, trí thức, sinh viên thân mến,
 
Tây phương biết Phật giáo từ hồi đầu thế kỷ 19. Nhưng hồi đó chỉ mới một số ít học giả và triết gia khám phá ra sức thu hút của một tư tưởng đến từ phương Đông mà người ta không biết nên gọi là tôn giáo hay triết lý. Âm thầm, “ im lặng, Phật giáo lan ra xã hội, phát triển khắp nơi ở châu Âu ” (1) từ giữa thế kỷ 19 cùng với sự phát triển của trào lưu tiến hóa mà ngày nay ta gọi là hiện đại. Âm thầm, im lặng như thế cho đến đầu những năm 60 của thế kỳ 20 thì Phật giáo bỗng được tiếp nhận rộn ràng trong giới trẻ khi giới này phất lên một phong trào văn hóa phản kháng (contre-culture) chống lại văn hóa tôn sùng kỹ thuật, vật chất và tiền bạc. Giới trẻ khao khát một đời sống tâm linh mới giúp họ giải quyết những vấn đề tâm lý, hiện sinh, và họ nghĩ đã tìm được nơi Phật giáo. Đó là lúc mà nhiều trí thức trẻ tìm đến Tây Tạng như tìm đến miền đất hứa. Nhanh chóng, trong vòng hai mươi năm, tu viện và thiền viện mọc lên hàng trăm ngôi trên khắp Âu Mỹ. Giới trẻ – học thức và trung lưu – gặp một thứ hạnh phúc mới mà họ thực chứng được bằng kinh nghiệm tu học bản thân trong các thiền đường. Đến những năm 90 thì báo chí, truyền thông rộ lên cả một cao trào tin tức, bình luận, phóng sự, hình ảnh đầy cảm tình với Phật giáo. Cùng lúc, Hollywood nồng nhiệt đưa lên màn ảnh phim truyện về cuộc đời của đức Phật, về ngài Đạt Lai Lạt Ma, về Tây Tạng, nhiều ngôi sao màn bạc, nghệ sĩ, ca sĩ danh tiếng trở thành Phật tử, khiến dư luận, quần chúng, càng có cảm tình hơn. Bây giờ thì Phật giáo đã mọc rễ, đã phát triển trong xã hội, trong đời sống văn hóa ở Âu Mỹ. Phật giáo là môn học được ưa chuộng trong các trường đại học Mỹ danh tiếng, thu hút sinh viên ngày càng đông.
Thưa Quý Vị và các bạn thân mến, tôi rất vinh đự được nói chuyện với Quý Vị trong Tuần Lễ Văn Hóa này, và rất vui mừng được đặc biệt làm quen với các bậc trí thức và các bạn trẻ.
Trong mấy câu nhập đề sơ lược ở trên, chắc quý vị và các bạn đã để ý : tôi nhấn mạnh đến giới trẻ và trí thức. Chẳng phải vì tôi thuộc vào thành phần ấy. Mà vì đó là khía cạnh mà tôi muốn hạn chế trong đề tài của tôi. Âu Mỹ đang mở lòng tiếp nhận một tư tưởng, một tôn giáo mà họ cho là rất trẻ và rất hiện đại. Hiện đại : đó là khía cạnh của đề tài rộng lớn mà tôi sẽ nói chuyện với quý vị hôm nay : tại sao Phật giáo bành trướng được ảnh hưởng trên Âu Mỹ ? Bài nói chuyện của tôi sẽ gồm 4 điểm vây quanh chủ đề hiện đại. Trong điểm thứ nhất, tôi sẽ cắt nghĩa thế nào là hiện đại. Trong điểm thứ hai, tôi trình bày : Phật giáo thích hợp với hiện đại như thế nào. Trong điểm thứ ba, tôi sẽ nói : thế nhưng chính hiện đại đang bị khủng hoảng. Trong điểm thứ tư, tôi trả lời : chính vì hiện đại bị khủng hoảng mà Phật giáo lại càng thích ứng. Trong suốt bài nói chuyện của tôi, và nhất là trong phần kết luận, các bạn sẽ nhận ra rằng tôi nói chuyện phương Tây mà thật ra là tôi nói chuyện Việt Nam. Mở cửa nhìn ra thế giới, chính là để biết mình là gì và biết mình phải làm gì.
Lễ Khai mạc Tuần Văn hoá Phật giáo tại TP Vinh - Nghệ An (8.2012)
I. Vậy thì, điểm thứ nhất : Thế nào là hiện đại ? Hiện đại là gì ?
Từ ngữ này đã trở thành quá phổ thông, đã bị pha loãng ra trong ngôn ngữ thường ngày, ở ta cũng như ở Âu Mỹ, cho nên phải trở về lại với lịch sử để tìm bản chất của nó. Thông thường, ta dùng từ hiện đại để nói cái gì là mới, ngầm ý tán thưởng : mới là hơn cũ, nay là hơn xưa. Thì cũng đúng thôi ! Nhưng có người sẽ nói trái lại : chắc gì mới đã hơn cũ, chắc gì nay đã hơn xưa ! Ở thời nào cũng vậy, và ở xã hội nào cũng vậy, hai khuynh hướng cứ đối chọi nhau : một muốn đi tới, một muốn kéo lui, một cách tân, một hoài cổ, bên nào cũng muốn biện minh khuynh hướng của mình, và nếu biện minh có hệ thống thì trở thành ý thức hệ, trở thành chủ nghĩa, “ chủ nghĩa hiện đại ” chống lại “ chủ nghĩa truyền thống ”. Để tránh cả hai cực đoan, cực đoan của phe mới cũng như cực đoan của phe cũ, tôi lần theo chiều lịch sử phân tích đâu là những yếu tố tạo thành cái mà ta gọi là hiện đại.
Yếu tố quan trọng nhất là tự chủ, là con người tự chủ, con người tự mình làm chủ mình.
Làm chủ là thế nào ? Kant đã cắt nghĩa bằng một câu bất hủ khi được hỏi : “ Khai Sáng là gì ? ” Ông trả lời : “ Là con người bước ra khỏi tình trạng vị thành niên ”. Trước khi tư tưởng Khai Sáng bừng nở, con người hãy còn thơ ấu, phải vịn vào tay người lớn mà đi, bây giờ đi được một mình. Chữ Pháp, chữ Anh làm rõ hơn nghĩa đó. Autonomie có gốc Hy Lạp là autos (tự mình) và nomos (luật) : con người tự mình cai trị mình theo luật tự mình làm lấy, chứ không phải luật do người khác làm ra và bắt mình phải theo. Và luật do mình làm ra dựa trên cái gì ? Dựa trên lý trí, lý tính mà đã là người thì ai cũng có. “ Hãy có can đảm sử dụng lý tính của chính mình ! ” : đó là châm ngôn của Khai Sáng và cũng là châm ngôn của con người hiện đại. Đừng dựa nữa vào bất cứ cái gì ở ngoài con người, nhất là ở trên cao. Hãy đứng dậy, đừng vịn nữa vào Thượng Đế !
Từ yếu tố quan trọng nhất đó, từ tự chủ, cả một loạt các yếu tố khác sáng rõ ra, bắt đầu là sự giải phóng của lý tính phê phán, bởi vì phê phán là chức năng của lý tính. Không có gì được thoát ra khỏi phê phán, không có đối tượng nào được xem là Tuyệt Đối, là húy kỵ, kể cả Thượng Đế, kể cả Nhà Thờ. Kant hô to : “ Hãy dám tư tưởng ! ” Không có lĩnh vực nào là lĩnh vực riêng của bất cứ quyền uy nào : tất cả đều phải bước qua “ tòa án của lý tính ”.
Trước tòa án đó, bị cáo mà tư tưởng hiện đại nhắm đến trước tiên là lòng tin tôn giáo. Phải giải phóng lý tính ra khỏi lòng tin. Phải giải phóng Galilée ra khỏi lòng tin nô lệ, tin rằng mặt trời xoay chung quanh trái đất. Với lý tính, khoa học sẽ phát triển, và khoa học có khả năng vén những tấm màn bí mật của vũ trụ mà lòng tin cố cản. Khoa học, tư tưởng khoa học, đó là ánh sáng dẫn đường cho tính hiện đại, giúp con người tự mình biến đổi thế giới, làm thành thế giới của con người, đập tan mọi xiềng xích của mê muội. Khoa học sẽ phát triển không ngừng, do đó tiến bộ cũng đi tới không ngừng, tiến bộ giống như mũi tên bắn ra, chỉ bay thẳng phía trước, không ngoằn ngoèo, vòng vo.
Với tự chủ của con người trưởng thành, với lý tính được giải phóng ra khỏi lòng tin, với khoa học vén màn bí mật, các bạn thấy lịch sử của tư tưởng Âu châu cứ dần dần đi vào chiều hướng củng cố địa vị của con người, bắt đầu từ thời Phục Hưng (thế kỷ XIV-XVI). Chiều hướng đó, khuynh hướng đó, cao trào đó, tên của nó là nhân bản chủ nghĩa (humanisme). Không thể hiểu được tư tưởng Âu châu nếu không thấy cái hướng đi đó của chủ nghĩa nhân bản, và cũng không thể hiểu được hiện đại là gì nếu trước hết không hiểu sự giằng co, có khi âm thầm, có khi dữ dội, giữa Thiên chúa giáo và nhân bản chủ nghĩa (2). Cố gắng, cố gắng không ngừng để phát triển, phát triển không ngừng tất cả những khả năng của con người để đừng làm mất đi bất cứ cái gì làm con người lớn lên, làm con người vinh thăng. Lớn lên bằng cách nào trong lịch sử Âu châu ? Bằng cách làm bớt đi, làm nhỏ dần Thượng Đế. Cho đến thế kỷ 19 thì Nietzsche loan báo : “ Thượng Đế chết rồi ! Chúng ta đã giết ! ”
Sự thực là Thượng Dế vẫn còn đấy thôi, nhưng thay hình đổi dạng, không còn là Thượng Đế nhân dạng nữa. Mà cũng chẳng còn thống trị nữa trong tư tưởng, trong đời sống xã hội, trong luật pháp, trong chính trị, trong sinh hoạt thường ngày của người Âu châu. Thế kỷ 20 không còn đặt vấn đề giết Thượng Đế nữa, bởi vì người ta sống ngoài vòng cương tỏa của Thượng Đế, chẳng cần biết Thượng Đế là ai, có hay không, và chính thái độ dửng dưng đó làm các người bênh vực Thượng Đế bực mình còn hơn là thái độ chống đối Thượng Đế. Xã hội ngày nay ở châu Âu đi vào tình trạng mà các nhà xã hội học gọi là thế tục hóa. Thế tục hóa : đó cũng là một trong những yếu tố đặc trưng của hiện đại. Trên quá trình hiện đại hóa đó thì Tây phương gặp đạo Phật.
II. Đạo Phật hiện đại như thế nào trước mắt Tây phương ?

Con người Tây phương khám phá ra rằng cách đặt vấn đề của đạo Phật đáp ứng nhu cầu của thời đại mới. Tây phương đang chối từ Thượng Đế thì đạo Phật giải thích không có Thượng Đế. Tây phương phải nhờ Darwin để cắt nghĩa rằng vũ trụ không phải do một Đấng nào sáng tạo ra cả trong bảy ngày thì đạo Phật đã nói cách đây hơn 2500 năm rằng thời gian là vô thủy vô chung, vũ trụ là vô cùng vô tận. Tây phương ngay ngáy lo sợ về ngày phán xét cuối cùng của Thượng Đế thì Phật giáo nói : không có ai phán xét ta cả, chỉ có con người phán xét con người thôi. Tây phương trăn trở về những vấn đề siêu hình thì Phật giao kể chuyện mũi tên : khi anh bị mũi tên độc bắn vào thân thì anh phải rút nó ra ngay hay anh ca vọng cổ hỏi mũi tên do ai bắn, lý lịch thế nào, hộ khẩu ở đâu. Rút mũi tên ra : đó là nhu cầu giải phóng con người ở Tây phương và họ thấy nơi Phật giáo một đáp số hợp với lý tính, đặt nặng trên kinh nghiệm, trên thực hành, và kiểm chứng được bằng kết quả bản thân, ở ngay đời này, chứ không phải đợi đến khi lên thiên đường, xuống địa ngục.
Hợp với lý tính : người Tây phương ngưỡng mộ nét đặc biệt đó của Phật giáo, làm Phật giáo khác với các tôn giáo khác.
Phật giáo từ chối lòng tin nếu không đặt cơ sở trên trí tuệ. Bởi vậy, trong Phật giáo không có tín điều. Tây phương ngưỡng mộ kinh Kâlâma khi Phật dạy : Đừng vội tin một điều gì dù điều đó được ghi trong kinh điển hay sách vở. Hãy quan sát, suy tư, thể nghiệm, thực chứng rồi mới tin. Tinh thần đó xuyên suốt kinh kệ Phật giáo. Người trí thức Tây phương thấy tinh thần đó hợp với khoa học, hợp với đầu óc phê phán. “ Phật giáo là tôn giáo duy nhất thích ứng với khoa học hiện đại ”, Einstein đã phát biểu như vậy.
Tại sao Phật giáo hợp với khoa học ? Tại vì Phật giáo không nói điều gì mà không có kiểm chứng. Phật giáo nói : sự vật là vô thường. Hãy nhìn chung quanh với mắt của mình, kinh nghiệm của mình : có cái gì là thường còn đâu ? Cái thường còn duy nhất là khoảnh khắc này đây. Vậy thì tìm thiên đường ở đâu nếu không phải nơi chính cái khoảnh khắc này ? Hạnh phúc nằm ngay nơi mỗi khoảnh khắc : đó là bài học hiện đại quý giá nhất mà Phật giáo đem đến cho người Tây phương. Và hãy nhìn thêm nữa : mọi sự mọi vật đều tương quan lẫn nhau mà có và tương quan lẫn nhau mà diệt. Màu hồng nơi đóa hoa kia có phải tự nó mà có không ? Đâu phải ! Nếu không có mặt trời thì nó đâu có hồng thắm như vậy ? Nhưng mặt trời có phải là tác giả duy nhất của màu hồng kia không ? Không ! Vì nếu không có mưa thì làm sao hoa sống ? Nhưng mưa có cũng là do mây, mây có cũng là do hơi nước. Cái này có thì cái kia có, cái này không thì cái kia cũng không. Đó là luật vô ngã của Phật giáo và cũng là luật tương quan tương sinh. Ai đọc sách của nhà vũ trụ vật lý học Trịnh Xuân Thuận đều biết : những luật đó có nhiều điểm hội tụ với khoa học vũ trụ vật lý. Áp dụng được luật đó vào đời sống bản thân, đời sống gia đình, đời sống xã hội, cam đoan không cần tìm thiên đường ở đâu xa. Đó là chưa kể đến luật nhân quả mà ai cũng có thể dễ kiểm chứng. Từ đó, người Tây phương đi đến một cái nhìn hiện đại hơn nữa vào bản chất của cuộc đời để hiểu chữ “ khổ ” trong Phật giáo. Họ chất vấn Thượng Đế : Nếu Thượng Đế là toàn năng thì sinh ra làm chi thiên tai, động đất, triều cường, dịch này dịch nọ giết hại phút chốc hàng trăm ngàn người như vậy ? Nếu Ngài là nhân từ thì sao con người khổ thế, con người khổ thế thì Ngài ở đâu ? Phải chăng, người Tây phương hỏi, khổ nằm ngay trong bản chất của cuộc đời như muối nằm trong biển, mà sinh lão bệnh tử chỉ là những khía cạnh dễ thấy nhất ? Từ đó, Tây phương hiểu chữ “ niết bàn ” của Phật giáo đúng hơn hồi thế kỷ 19 : niết bàn là hết khổ, mà hết khổ là tự mình. Bản thân tôi, mỗi khi tôi nghe ai cầu cho người chết được siêu thoát, tôi không khỏi cười thầm, bởi vì “ siêu ” là vượt lên, “ thoát ” là giải thoát, vượt lên trên tham sân si thì giải thoát, vậy thì nên cầu cho cả người sống được siêu thoát. Tôi không dám đùa đâu, người Tây phương hiểu điều đó hơn ta, bởi vì họ hiểu tư tưởng nhân bản của chính họ : nhân bản nghĩa là con người vượt lên trên con người, con người có đủ khả năng để vượt lên trên chính mình.
Nhưng vượt lên như thế nào, cụ thể bằng cách nào ? Đây là cái mới mà Phật giáo đem đến cho Tây phương và đem đến trong tinh thần khoa học. Trong lịch sử, Tây phương đã vượt quá ta hằng mấy thế kỷ nhờ khám phá thế giới bên ngoài. Nhưng đến một lúc họ bỗng giật mình thấy rằng khám phá thế giới bên ngoài không đủ để đem lại hạnh phúc như họ tưởng bởi vì con người còn có đời sống ở bên trong. Ngài Đạt Lai Lạt Ma nhắc họ : “ Những vấn đề của chúng ta, dù đến từ bên ngoài, như chiến tranh, như bạo lực, như tội ác, hay đến từ bên trong dưới hình thức khổ đau về tâm lý hay tình cảm, đều sẽ không tìm ra giải pháp chừng nào chúng ta còn không hiểu chiều sâu nội tâm của ta ” (3). Đó là lúc mà ngài và các vị sư đắc đạo của Tây Tạng đến Âu Mỹ, mang theo một ánh sáng khoa học mới rọi soi vào nội tâm của con người, để làm một cuộc cách mạng thứ hai mà người Tây phương gọi là “ cách mạng ở bên trong ”, bổ túc cho “ cách mạng ở bên ngoài ” mà Tây phương đã từng làm, từng biết với khoa học. Chìa khóa của hạnh phúc không nằm ở đâu khác hơn là trong nội tâm mỗi cá nhân. Mà muốn nhìn thấy cái chìa khóa đó thì phải rọi soi vào bên trong bằng những kỹ thuật thiền định mà các nhà sư Tây Tạng đã thực chứng do chính kinh nghiệm của họ. Trong lĩnh vực này, đừng hòng các lang băm đến làm ăn bịp bợm : khoa học Âu Mỹ đã đặt nền móng vững chắc cho cuộc thám hiểm vào não bộ của con người. Các nhà sư Tậy Tạng đã đem chính bản thân để các máy móc tối tân trong các đại học danh tiếng nhất của Mỹ đo lường ảnh hưởng của thiền định trên não bộ. Họ không phải chỉ đem lời nói, họ đem thực hành, họ đem kỹ thuật, phương pháp cụ thể để các nhà khoa học quan sát, phán xét tính hiệu nghiệm của thiền định, góp phần lớn vào sự phát triển của ngành sinh học thần kinh. Tôi xin thú thực : bản thân tôi có tính đa nghi, khi đọc lịch sử đức Phật, tôi không hiểu làm sao Phật có thể ngồi thiền định dưới bóng cây bồ đề trong suốt 49 ngày. Bây giờ thì tôi hiểu : mỗi người chúng ta đều có một sức dự trữ tâm linh mà ta không ngờ bởi vì chưa bao giờ sử dụng. Tôi sẽ trở lui lại điểm này – cuộc hành trình của ta tìm ta để chữa bệnh cho chính ta và chữa bệnh cho thời đại.
Bây giờ, tiếp tục vấn đề nhân bản và khoa học, có phải sức quyến rũ của Phật giáo chỉ nằm ở tính khoa học của Phật giáo mà thôi hay không ? Tôi không nói đến chiều sâu của triết lý Phật giáo ở đây, cũng không nói đến tính minh triết mà Tây phương đang tìm lại. Tôi chỉ hạn chế trong một vấn đề nữa thôi : đạo đức. Đạo đức học ở Tây phương là những răn cấm, những mệnh lệnh. Người Tây phương hiện đại có cảm tưởng như có ngón tay chỉ vào trán và ra lệnh : mày không được thế này, mày không được thế kia, mày làm là phạm tội. Phạm tội với ai ? Tại sao như thế là phạm tội ? Tại sao tội đó phải nhờ một người khác giải tội với Trên Cao ? Đạo đức đó, con người hiện đại chối bỏ vì họ cảm thấy như vậy là hãy còn vị thành niên. Đạo đức của Phật giáo trái hẳn, bắt nguồn từ con người. Không ai ra lệnh, không ai răn cấm. Phật giáo nói : tham thì khổ, sân thì khổ, si thì khổ. Từ thì vui, bi thì vui, hỷ thì vui, xả thì vui. Từ bi hỷ xả, cứ thực hành sẽ thấy vui. Tham sân si, cứ mắc vào sẽ thấy khổ. Đừng giết hại, đừng nói dối, đừng trộm cắp, đừng tà dâm, đừng say rượu : đó là năm điều tôi tự nguyện với tôi, làm được đến đâu chính tôi nhẹ nhàng đến đó. Đạo đức của Phật giáo là thực nghiệm, nhắm mục đích làm cho con người tốt hơn đã đành, nhưng cốt nhất là làm nội tâm thanh thản, bởi vì thanh thản chính là hạnh phúc.
Hơn thế nữa, đạo đức Phật giáo còn thức tỉnh con người hiện đại ở Tây phương ở chỗ nới rộng lòng từ bi và ý thức liên đới ra khắp chung quanh, không những giữa người với người, mà còn giữa người với thú vật, với thiên nhiên. Dưới ảnh hưởng của tôn giáo cổ truyền của họ, Tây phương đã cổ vũ, huy động từ thế kỷ 17 mọi cố gắng để chinh phục, cai trị thiên nhiên. Chiến công đó, nhân loại cám ơn. Xẻ sông, lấp núi : cái gì con người cũng làm được, thiên nhiên đã bị nhân hóa. Nhưng thiên nhiên cũng đã bị khai thác, bóc lột đến kiệt quệ, rừng trọc đầu, mưa hóa chất, nước nhiễm độc, chúng ta biết rõ hơn ai hết. Và rốt cục, con người ăn trong miếng ăn những chất độc do chính con người thải ra. Đạo đức đối với thiên nhiên trở thành trách nhiệm của chính con người. Các tôn giáo khác nói : không được giết người. Phật giao nói : tôi nguyện không sát sinh, nghĩa là không giết sự sống, và sự sống đó, thú vật đều có, cây cối thiên nhiên đều có, vũ trụ, khí quyển, trái đất đều có, tất cả đều liên đới với con người, phải yêu thương nhau như một thì mới sống còn với nhau.
Tôi vừa động đến một vấn đề hiện đại có tính tiêu cực : vấn đề môi trường. Bởi vì hiện đại không phải cái gì cũng hay. Hiện đại cũng có lắm tiêu cực. Hiện đại cũng đang gặp khủng hoảng. Bởi vậy, sau khi tán thưởng hiện đại và giải thích Phật giáo hiện đại như thế nào, tôi bắt qua điểm thứ ba, trình bày những khủng hoảng của hiện đại.
III. Khủng hoảng của hiện đại

Khủng hoảng quan trọng nhất của hiện đại là khái niệm về Tiến Bộ. Hồi thế kỷ 19, với sự phát triển thần kỳ của khoa học, ai cũng lạc quan về tương lai. Cha đẻ của môn xã hội học, Auguste Comte, xây dựng cả một hệ thống lý thuyết cắt nghĩa rằng lịch sử của nhân loại là lịch sử của tiến bộ, tiến bộ của đầu óc con người từ giai đoạn thần linh qua giai đoạn siêu hình để cuối cùng đến giai đoạn khoa học. Đó là một sự tiến bộ không ngừng và giai đoạn sau tốt đẹp cho con người hơn giai đoạn trước về phúc lợi, vật chất cũng như tinh thần. Lạc quan đó, Tây phương đã thấy đổ vỡ phũ phàng với chiến tranh thế giới thứ hai. Một nước văn minh như nước Đức trở thành một nước dã man, phi nhân, trong học thuyết cũng như trong hành động. Nước Đức quốc xã đưa ra hình ảnh ghê rợn của một phá sản tinh thần, khi phá sản đó xảy ra trong chính niềm tin vào “ tiến bộ đạo đức ” mà người ta chờ đợi ở hiện đại. Rồi bom nguyên tử, rồi Hiroshima, rồi chiến tranh lạnh, rồi leo thang vũ khí tận diệt nhân loại, đâu là Tiến Bộ, đâu là đạo đức của khoa học ? “ Khoa học mà không có lương tâm là đổ nát của linh hồn ”, câu nói ấy trở thành thời sự trước mắt. Khoa học là mục đích nhưng lương tâm phải là người bạn đồng hành. Nói là nói thế, nhưng trên thực tế người bạn đồng hành của khoa học lại là chiến tranh, buôn bán vũ khí, chiến tranh làm phát triển khoa học, khoa học phục vụ chiến tranh.
Khái niệm “ tiến bộ ” cũng được cảnh báo cả khi khoa học làm đúng nhiệm vụ của khoa học là tìm tòi, nghiên cứu, phát minh, vén màn bí mật của vũ trụ và đời sống.
Không có gì quý hóa cho con người hơn là những phát minh càng ngày càng nhiều trong y khoa. Khám phá về tế bào gốc chẳng hạn là một trong những phúc lợi lớn mà nhân loại chờ đợi. Nhưng lương tâm có cho phép ta tạo ra đồng loạt vô số những người y chang giống nhau trong tương lai ? Chẳng lẽ khoa học cũng bắt chước Tôn Hành Giả nhổ một sợi lông, thổi một cái, để biến ra thành cả trăm con khỉ giống hệt nhau, chẳng biết con nào là khỉ gốc họ Tôn ? Hiện đại đang gặp phải vấn đề của “ đạo đức sinh học ”, mà đạo đức sinh học không thể không liên quan đến cái nhìn của tôn giáo.
Cuối cùng, khái niệm “ tiến bộ ” còn được đặt lại khi tiến bộ vật chất đưa đến xã hội tiêu thụ trong đó con người bị tha hóa, nghĩa là mất địa vị chủ. Đây là mê lộ trong đó con người Âu Mỹ nhởn nhơ sa vào. Muốn phồn thịnh kinh tế, phải sản xuất. Muốn sản xuất, phải có tiêu thụ. Muốn có tiêu thụ, phải kích thích nhu cầu, không có nhu cầu cũng phải kích lên cho có. Nhu cầu này được thỏa mãn, phải kích lên nhu cầu khác, nhu cầu phải luôn luôn mới để đáp ứng sản xuất phải mới luôn luôn. Hiện đại đòi hỏi những con người có lý tính. Đâu còn là lý tính nữa trước cuộc chạy đua không ngừng đuổi theo nhu cầu giả tạo, đuổi theo tiêu thụ phù du ? Con người trở thành nô lệ của quảng cáo, và quảng cáo, tuyên truyền, có đủ mánh lới để tước bỏ phê phán ra khỏi đầu óc người nghe. Lúc nhỏ, ở lớp 11, 12, tôi học câu thơ của Nguyễn Công Trứ : “ Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc ”. Biết đủ thì đủ, tìm đủ thì biết đến bao giờ mới thấy đủ ! Ấy là câu thơ dí cái chìa khóa vào tay ta để mở cửa thoát ra khỏi mê lộ tiêu thụ. Nhưng cái tài của quảng cáo là mê hoặc, đưa con người tiêu thụ vào siêu thị mà làm người ta tưởng vào chốn đào nguyên !
Tha hóa : con người hiện đại thoát ra khỏi tha hóa đối với Trên Cao thì lại rơi vào tha hóa ở dưới đất. Tha hóa trước sản phẩm, hàng hóa. Tha hóa trước thị trường. Bởi vì cái gì bây giờ cũng trở thành thị trường, cái gì cũng bị thị trường khai thác, kể cả lĩnh vực tâm linh. Phật giáo cũng bị thôi, và bị chính vì sự thành công của mình. Tôi chỉ lấy một ví dụ thôi : cái nhãn hiệu “Nirvana” trên một sản phẩm sắc đẹp của quý bà. Thoa kem ấy vào, lập tức thấy cực lạc ! Cực lạc bỗng trở thành nạn nhân của tha hóa. Tôi nhấn mạnh điểm này để giải thích cho các bạn về sự biến đổi của lòng tin ở Tây phương. Đúng là người Âu châu có vấn đề với Thượng Đế. Đúng là nhà thờ vắng tín đồ. Đúng là linh mục khan hiếm, phải cầu viện đến tận các linh mục Phi châu. Đúng là người Âu châu không đi tìm nữa trong tôn giáo truyền thống của họ câu giải đáp lớn cho những khắc khoải của tâm linh, mà đi tìm những phương thuốc tức thì trên hạ giới này, trên đời sống này, ở đây và bây giờ, here and now. Đúng như quy luật của thị trường, ở đâu có cầu thì ở đấy có cung. Hàng loạt tín ngưỡng lang băm, chính tà lẫn lộn, xuất hiện trên thị trường tâm linh, tranh nhau giành khách. Và khách ở đây là những người có đời sống vật chất đầy đủ, nhưng bơ vơ, cô đơn, mất tập thể, mất phương hướng, mất ý nghĩa sống. Ngày trước, con người Âu châu cũng yếu đuối trước Thượng Đế, nhưng họ có cái gì để tin, họ có cái chắc chắn. Bây giờ họ cũng yếu đuối, nhưng không có cái gì để tin nữa, họ mất chân đứng, họ mất quân bình, họ mất chiều cao lẫn chiều ngang, họ lung lay. Và vì họ lung lay, họ tưởng cần phải củng cố cái “ tôi ” của họ, cái “ tôi ” mà một chủ nghĩa cá nhân quá đà đã đề cao lên thượng đỉnh. Các bạn hiểu tại sao ngành phân tâm học phát triển như thế ở Âu Mỹ, tại sao các bác sĩ phân tâm học đông khách nhà giàu và trí thức : họ đi tìm cái “ tôi ” của họ ! Nhưng cái “ tôi ” của họ trốn ở đâu ? Một số người đi tìm trong cùng tận thâm sâu bí ẩn của ý thức dưới ánh đèn pin của ông Freud. Một số, nông cạn hơn, nghĩ rằng cái “ tôi ” của mình là cái thân này đây, phải làm cho nó mạnh, khỏe, đẹp, và nhất là trẻ mãi, để “ cực lạc ” mãi. Tất nhiên họ biết : cung cấp món ăn cho cái thân thì cũng phải cung cấp món ăn cho cái tâm, vì tâm không yên thì thân cũng khó khỏe. Nhưng họ ăn gì trên mâm cơm tinh thần của họ ? Ăn lẩu. Nghĩa là hổ lốn. Chút tôm, chút mực, chút thịt gà. Chút Chúa chút Phật. Bác ái lộn xà ngầu với từ bi. Lấy một chút chỗ này, một chút chỗ kia, cái gì mà cá nhân mỗi người thấy hoặc tưởng thích hợp cho riêng mình thì gắp bỏ chung vào cái lẩu nước xúp tâm linh. Người Pháp gọi cách thực hành tân thời này là “ bricolage ” - lắp ghép thủ công.
Trong chiều hướng đó, ngồi thiền phát triển khắp nơi tại Âu Mỹ. Tất nhiên là hay. Nhưng trong cái hay đó, coi chừng cái dở. Cái dở là thị trường tâm linh đánh đúng vào tâm lý con người thời đại, quảng cáo ngồi thiền như một kỹ thuật để gìn giữ sức khỏe và chỉ như một kỹ thuật mà thôi. Như một kỹ thuật, quảng cáo biến ngồi thiền thành một thứ kem xức mặt, xức vào thì da mặt mát ra, nhìn vào gương thấy cái “ tôi ” của mình như gái một con trông mòn con mắt. Chắc các bạn biết thần thoại Hy Lạp về anh chàng Narcisse. Anh chàng mê mình đến độ ngất ngây soi bóng mình trên mặt nước, soi gần, thật gần, môi chạm môi, và anh chàng lộn cổ xuống ao. Con người hiện đại ở Tây phương cũng mê cái “ tôi ” của mình như thế, ve vuốt nó, hôn nó, tưởng nó có thật trong một dòng sông ảo. Nhà sư danh tiếng Tây Tạng Chögyam Trungpa gọi đùa khuynh hướng đó là “ chủ nghĩa duy vật tâm linh ” (“ spiritual materialism ”). Nhưng đó đích thực là một vấn đề, một thách thức đối với hiện tại và tương lai của Phật giáo tại Âu Mỹ. Bởi vì ngồi thiền không phải chỉ là một kỹ thuật, lại càng không phải để phục vụ cho cái “ tôi ”. Ngồi thiền, chính là để thấy cái “ tôi ” là không có. Và như vậy là tôi bắt qua điểm thứ tư : Phật giáo trong thời hiện đại bị khủng hoảng.
IV. Phật giáo và khủng hoảng của hiện đại

Nhiều tác giả gọi thời đại này là “ hậu hiện đại ”. Tôi không đồng ý với khái niệm này nên chỉ đề cập ở đây hiện tượng khủng hoảng thôi. Và tôi cũng chỉ xin hạn chế vấn đề vào một khủng hoảng thôi là khủng hoảng của cái “ tôi ”.
Trước hết, tôi không phủ nhận phúc lợi của việc ngồi thiền, dù cho ngồi thiền chỉ để tăng cường sức khỏe. Ai đã ngồi thiền và ngồi thiền đúng kỹ thuật rồi đều nói : không phải chỉ sức khỏe được tăng cường, tâm hồn cũng được thư thái. Bản thân tôi không phải chỉ chứng nghiệm một lần mà cả ngàn lần : chỉ cần biết nén giận trong một giây thôi, đừng cho nó nổ ra, đã là khóa được cái cửa của địa ngục. Huống hồ ngồi thiền không phải chỉ trong một giây ! Bởi vậy, người Tây phương biết đưa việc ngồi thiền vào nhiều lĩnh vực : bệnh viện, nhà tù, trường học, công sở, xí nghiệp… Họ làm có phương pháp, bài bản, làm việc gì cũng phải làm cho đến nơi đến chốn.
Nhưng thiền không phải chỉ là thế. Thiền là tự biết mình, và tự biết mình là để quên mình. Quên mình là để nhập làm một với tất cả những gì hiện hữu. Đó là câu định nghĩa của Đạo Nguyên mà các thiền viện ở Âu Mỹ áp dụng như kinh nhật tụng. Thế nào là tự biết mình ? Tôi không muốn đưa các bạn vào lý thuyết xa xôi. Chỉ nói một hành động nhỏ nhặt, cụ thể, của một người Âu Mỹ khi lần đầu tiên bước vào thiền đường. Cử chỉ đầu tiên là cởi giày. Cởi giày, xếp ngay ngắn. Bước nhẹ vào thiền đường. nghe một mùi hương thoảng, gặp một im lặng thẳm sâu, đi trên một sàn gỗ sạch không một hạt bụi, thấy một không gian không chướng ngại mở rộng ra trước mắt. “ Cởi giày ”: đó là bài kinh đầu tiên của họ. Cởi vướng mắc ra, giải thoát cho hai bàn chân, hai bàn chân quý lắm, bao nhiêu nút thần kinh nằm ở trong đó, hai bàn chân quý lắm, nhờ nó mà mình đứng vững được, hai bàn chân quý lắm, hãy biết quý hai bàn chân như chưa bao giờ mình biết quý nó trước đây, hãy nghe hai bàn chân đang hạnh phúc khi gặp hơi mát của sàn gỗ, nó và cái sàn gỗ đang tan thành một, người bước vào phòng đang biến thành một với gian phòng trống, với im lặng mênh mông. Bàn chân quên nó. Người bước vào phòng quên mình, để cái “ tôi ” ngoài cửa, như để đôi dép.
Từ khi sinh ra, ta đã muốn chỉ huy cả thế giới, sai khiến mọi người chung quanh. Đói, khóc ầm lên, mẹ phải đưa ngay bầu sữa. Thèm hơi ấm, mếu máo để được người bồng. Muốn cái gì phải có ngay cái nấy, không thì la hét. Ta là trung tâm của vũ trụ, tất cả mọi người đều phải chiều ta. Lớn lên, ta cũng vậy thôi, 99% của cuộc đời ta được xài phí để lái thiên hạ, bắt thiên hạ phải thỏa mãn ý muốn của ta. Thậm chí, cái mà ta gọi là “ tình yêu ” suy cho cùng cũng chỉ là nhu cầu cần có một quan hệ gần gũi để ta cảm thấy sung sướng. Có lẽ ở đâu cũng vậy, nhưng trong văn hóa của cá nhân chủ nghĩa Âu Mỹ, nghĩ đến ta được xem là chuyện bình thường, tất nhiên. Ai lái người khác giỏi để phục vụ mình tốt, người ấy được xem là thành công. Thiền là trái ngược lại. Không nhắm tích tụ. Không nhắm chinh phục. Càng nhiều cái “ có ” càng ít cái “ là ”, cái tinh túy, cái bản chất, cái đem lại hạnh phúc. Và tôi “ là ” gì, chính là ở phút này đây. Ở phút này đây, tôi còn sống, còn thở, còn nói, còn có các bạn để nghe, còn có nắng đẹp ngoài kia, gió mát đang thổi, hạnh phúc vô biên, hạnh phúc được sống với cái khoảnh khắc này, được làm một với các bạn, được làm một với tất cả, được làm một với tờ giấy trước mắt tôi. Thiền không phải là ngồi yên. Thiền là không đi ăn mày nữa, không ngửa tay xin xu hào nơi người khác, nơi bên ngoài, bởi vì thiền là biết rằng cả một kho tàng châu báu nằm ở trong ta, hãy nhìn vào để thấy, và để chiêm nghiệm rằng ta càng trống đi cái “ tôi ” thì kho tàng ấy càng đầy.
Các thiền viện Âu Mỹ biết nhắm đến cái mục đích ấy. Kho báu trong tôi càng đầy, khả năng nhập thành một với mọi vật chung quanh càng nhạy bén, và khi ấy, tôi khổ với cái khổ của bạn, tôi vui với cái vui của bạn, tôi không còn nữa, bạn cũng không còn nữa, chỉ còn cái khổ chung, cái vui chung. Định nghĩa của chữ “ từ bi ” là như vậy, và ngồi thiền chính là để mở rộng lòng từ bi. Tôi đã là một với tất cả, làm sao tôi không thương tất cả, từ thiên nhiên đến loài vật, từ người gần đến người xa ?
Tôi biết : đó là lý thuyết rất cao mà không phải ai cũng đạt được hoặc hiểu được. Nhưng, tôi xin quả quyết : cứ bước dần đi mỗi bước rồi sẽ thấy : quên mình nhiều nhiều hơn một chút, nghĩ đến người khác nhiều nhiều hơn một chút, ấy là con đường đi đến hạnh phúc. Và xin các bạn hãy biết điều này : các người Âu Mỹ ngồi trong thiền đường phần đông là trí thức hoặc thuộc thành phần cao trong xã hội, đã nắm khá vững lý thuyết Phật giáo và có lòng hướng đến một cái gì cao hơn đời sống vật chất, vị kỷ. Tôi nói điều này là để nghĩ đến tương lai của Phật giáo ở Âu Mỹ. Phật giáo hạn chế ở tầng lớp trí thức hay mở rộng ra cho đại chúng ?
Tôi không có thì giờ để đi sâu vào câu hỏi này. Chỉ xin nói rằng : bộ não của con người gồm hai phần : khả năng lô-gích, trừu tượng, phân tích, tương ứng với não bộ phía trái ; khả năng nhận ra sự giống nhau giữa những cái khác nhau, trực giác, tổng hợp, tương ứng với não bộ phía phải (4). Tác giả Frédéric Lenoir cho rằng văn minh Tây phương chú trọng tác động trên vũ trụ, tương ứng với việc đặt ưu tiên trên não bộ phía phải. Phật giáo đến Tây phương đã đóng vai trò tích cực trong việc làm quân bình hai vùng trong não bộ con người Tây phương. Trong cái ý đó, câu nói nổi tiếng của nhà sử học Arnold Toynbee đã thành dễ hiểu : “ Sự gặp gỡ giữa Phật giáo và Tây phương là biến cố có ý nghĩa nhất của thế kỷ 20 ”.
Tôi cũng nhân cái ý đó để nói thêm rằng Phật giáo chính là sự quân bình và trước hết là quân bình giữa trí tuệ và lòng tin. Không có trí tuệ thì không hiểu được đức Phật. Nhưng không có lòng tin thì cánh cửa cuối cùng của trí tuệ vẫn không mở ra. Trí tuệ cũng như hoa mai. Lòng tin cũng như hơi ấm đầu tiên của mùa xuân. Chạm vào một điểm của hơi ấm đó thôi, hoa nở bung. “ Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa ” là vậy. Chỉ một làn gió xuân thoảng qua thôi, chốn chốn hoa mai bừng nở. Thiền là cây cầu bắt qua giữa trí tuệ và lòng tin. Đó là pháp môn – cánh cửa đạo – mở ra cho các bậc thượng thủ. Nhưng không phải ai cũng là thượng thủ cả, cho nên Phật giáo nói có đến “ bốn vạn tám ngàn pháp môn ” thích hợp với căn cơ của mỗi người. Ai giàu trí tuệ, như giới trí thức ở Âu Mỹ, đi vào Phật giáo bằng cửa thiền. Ai giàu lòng tin… Đây chính là tương lai của Phật giáo tại Tây phương. Bởi vì Phật giáo muốn lan tỏa ở đây phải biết rằng không phải ai cũng là trí thức. Vậy thì, có một nhánh Phật giáo nào ở Âu Mỹ có khả năng lan tỏa ra đại chúng chăng ? Có. Đó là Phật giáo Tây Tạng mà ngài Đạt Lai Lạt Ma là hình ảnh sống động. Phật giáo bám rễ được ở Tây phương là nhờ ngài và cả một loạt những nhà sư Tây Tạng xuất chúng qua giáo hóa tại đấy. Chỉ mỗi một việc xuất hiện của các vị đó thôi đã làm dấy động được lòng tin nơi quần chúng. Phật giáo Tây Tạng đáp ứng được những khắc khoải về tâm linh của quần chúng hơn là thiền tông đến từ các thiền sư Nhật Bản. Nhưng dù là thiền tông hay Phật giáo Tây Tạng, trí tuệ và lòng tin phải cùng bay với nhau như hai cánh của con đại bàng.
Các bạn đồng nghiệp trí thức và sinh viên thân mến, chính vì hai cánh của con đại bàng mà tôi chọn đề tài này để nói chuyện với các bạn hôm nay. Tôi đâu có nói chuyện bên Tây. Tôi nói chuyện bên ta ! Chúng ta đã lãng quên trí tuệ của thiền tông Yên Tử. Chẳng lẽ đạo Phật trí tuệ đã bay cả rồi qua bên Tây ? Chẳng lẽ Tây phương thừa hưởng hết tinh túy của Phật giáo ? May thay, chúng ta rất giàu lòng tin, nhưng buồn thay, lắm khi, lắm nơi, đó là tin nhảm, đó là mê tín, đó không phải là đạo Phật. Không, nhất quyết ta không để gãy chiếc cánh trí tuệ của con đại bàng Lý Trần. Nhất quyết ta củng cố lòng tin chân chính. Đó là nhiệm vụ của Tuần Lễ Văn Hóa hôm nay. Các bạn trí thức Nghệ An thân mến, hãy chắp lại hai cánh của con đại bàng lịch sử. Hãy bay với hai cánh vào hiện đại./.

Chú thích :
Câu nói của Nietzsche, trích trong Frédéric Lenoir, Le bouddhisme en France trang 9.
Fernand Braudel : Grammaire des civilisations, Arthaud-Flammarion, 1987, trang 371.
Dẫn trong Frédéric Lenoir, La rencontre du bouddhisme et de l'Occident, Albin Michel, 2001, trang 318.
Frédéric Lenoir, như trên, trang 353.

NGUỒN : Bài phát biểu tại Tuần lễ Văn hóa Phật giáo tỉnh Nghệ An (Theo Diễn đàn) 

 http://www.vanhoanghean.com.vn/nhung-goc-nhin-van-hoa/goc-nhin-van-hoa/4970-hay-bay-voi-hai-canh-vao-hien-dai.html