Thứ Tư, 9 tháng 9, 2009

Quãng Nam hay cãi,


                              Nói thiệt là, METRO của nhà thơ Thanh Thảo là 1 tác phẩm có giá trị. Xét trên nhiều phương diện. Những lời tâm huyết và thẳng thắn của nhà thơ về vấn đề thời sự văn học nghệ thuật, càng có giá trị hơn. Đánh đổ 1 cái tên thì dễ, nhưng đánh đổ 1 nhân cách là không thể. Tôi tin ở tấm lòng Thanh Thảo.
           Sao chưa thấy nhà thơ tuổi 30 nào nhận lời thách đấu của nhà thơ Thanh Thảo nhỉ? Những cây bút trẻ mà ông Inrasara và ông Nguyễn Trọng Tạo suốt ngày khen sùi bọt mép, đâu hết rồi?
            Tôi đã đọc trường ca Metro của ông Thanh Thảo, chẳng ra cái quái gì, nó vẫn như thơ Thanh Thảo xưa nay thôi. Đây là tác giả tên to hơn tài thực. Một loạt trường ca của Thanh Thảo chỉ được lác đác vài câu hay thôi, chứ chẳng có tác phẩm nào toàn bích. Ông Thảo nổi tiếng là nhờ sự đề cao của Chế Lan Viên trong chùm thơ hơn chục bài viết ở đường Chín năm 1974 in trong tạp chí Tác Phẩm Mới. Nhưng nhìn lại đời thơ Thanh Thảo thấy mỏng teo. Bây giờ ông lại thách đấu bằng một trường ca, mà thực sự là một mớ hổ lốn. Cái tác phẩm gọi là Trường ca này không hay, nhưng bảo nó thua Nguyễn Quang Thiều, Trần Anh Thái thì cũng không ổn. Thơ ông Thảo hay hơn thơ ông Thiều, còn ông Thái thì đã biết làm thơ đâu. Văn đàn mình bây giờ chán thật, thi sĩ ế ẩm đành phải lên đài gạ đấu võ. Bẽ bàng quá xá. Mà có thách đấu thế cũng chẳng ai thèm đếm xỉa. Đấy mới là điều buồn chán nhất của văn chương Việt. Chú Nhơn cố gắng đăng ý kiến tôi nhé. Tôi là bạn Chế Lan Viên, từng có thơ in từ năm 1956 và đã có thời bị nghi là nhân văn giai phẩm. Thời nào cũng có cái buồn. Chán thật.
             Trên đây là một số ý kiến trong blog của tác giả Lê Thiếu Nhơn (http://lethieunhon.com/read.php/3859.htm#entrymore)
           Nhân đọc:  Nhà thơ 63 tuổi thách đấu nhà thơ 36 tuổi viết được như Metro, và những tranh cải xung quanh sự việc nầy, bất giác nhớ lại câu thành ngử dân gian, (câu vè):
                                 Quảng Nam hay cãi,
                                 Quảng Ngãi hay co
                                  Bình Định hay lo
                                 Thừa Thiên ních (lấy) hết!
               Vì có một số thân hửu người Bình Định, nên tôi cố tìm hiểu kỹ hơn và bất ngờ tìm được câu chuyện nầy:
Ngày xuân nghĩ về quê hương

                Cách đây ít lâu, một chị bạn kể chuyện cô con gái của chị về thăm Việt Nam. Cháu qua Mỹ hồi còn bé, lớn lên, học hành, trưởng thành trong khung cảnh mới nơi xứ người, kỷ niệm về quê hương chỉ là những mảng nhớ mơ hồ. Cháu về thăm quê hương một tháng, trở về Mỹ ngẩn ngơ như người mất hồn suốt hai ba tháng. Cháu cứ hỏi tại sao đồng bào mình sống khổ đến như thế, và ngẩn ngơ tuyệt vọng vì biết chắc còn lâu, lâu lắm, những người thân ở Việt Nam mới thoát được căn bệnh khổ nghèo triền miên kéo dài hằng thế kỷ qua.

                 Tuy chưa có nhiều kinh nghiệm đời, cháu cũng nhận ra được thực tế căn bản của đời sống nơi quê nhà: những trù phú sang trọng giả tạo và bấp bênh ở thành thị, những thiếu thốn cơ cực không lối thoát ở nông thôn, sự bất công lộ liễu trong xã hội, chênh lệch khủng khiếp giữa người giàu và người nghèo, ...

              Thu hẹp thực trạng quê hương vào một vùng nhỏ, như Qui Nhơn-Bình Ðịnh, càng có nhiều chuyện đáng buồn hơn. Qui Nhơn như một thành phố chết. Hàng quán ế ẩm. Phố xá buồn hiu. Những người trẻ bỏ thành phố tìm đất sống nơi khác, lên cao nguyên hay là xuôi nam, bỏ thành phố thân yêu lại cho người già và những viên chức chính quyền. Người dân vẫn sống vất vả bằng hoa lợi trên đám ruộng đám vườn của mình như bao nhiêu thế hệ đã qua, ngoài những thiên tai hằng năm còn phải chịu đựng thêm cái nạn "giặc ban ngày".

               Tôi buồn ray rứt khi nghe những chuyện không vui về quê hương mình. Rồi tự hỏi: Vì sao lịch sử thăng trầm biến đổi không biết bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu chế độ, mà quê hương tôi cứ như một đứa con ngoại hôn của đất nước, hết đời này đến đời khác tiếp tục ở thế yếu về chính trị, đến nỗi câu ca dao "Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co, Bình Ðịnh hay lo, Thừa Thiên ních hết" trở thành một điều hiển nhiên không có gì phải bàn cãi nữa? Tại sao nhân dáng, phong cách của người Bình Ðịnh luôn luôn có những nét hao hao giống nhau, không giống với người Quảng phía bắc và người Khánh Hòa phía nam?

               Tôi không tin những giải thích theo lối phong thủy, căn cứ vào thế sông thế núi để quyết đoán quê hương mình là nơi đắc địa, rồng ẩn hổ ngồi, không trước thì sau thế nào cũng xuất hiện "nhân kiệt". Những lập luận như vậy thoả mãn tự ái của địa phương, trong những lần họp hành chỉ có đồng hương với nhau thì nói để hả hê lòng dạ nhau, chứ đem ra ngoài ranh giới địa phương, không thuyết phục được ai. Người ở địa phương nào cũng giành phần "địa linh" về quê hương mình. Giành xong "địa linh", người địa phương nào cũng lục lọi hết sử sách để tìm cho ra những tai to mặt lớn từng sinh ra, lớn lên, hoặc do công vụ ghé qua chốn địa linh ấy, hào phóng thu nhận hết vào danh sách "nhân kiệt". Kết quả nơi nào cũng là địa linh. Nơi nào cũng đầy nhân kiệt mà ít ai đặt ngược câu hỏi: "Sao nhân kiệt địa linh nhiều quá mà nước vẫn nghèo, dân vẫn khổ?"

               Tôi không tin một đấng thiêng liêng tối cao nào đó định sẵn chỗ này là đất lành, chỗ kia là đất dữ, người vùng này gặp may, người vùng kia phải gánh hoạn nạn. Trên đất nước Việt Nam chúng ta, tính cách địa phương (như hình dáng, khuôn mặt, tiếng nói, tính tình...) từ vùng này sang vùng khác hiện ra rất rõ. Rõ đến nỗi có thể vạch bản đồ cá tính con người như là vạch bản đồ địa lý. 
              Chẳng hạn cái tính hiếu động, thích tranh luận của người Quảng (Quảng Nam hay cãi, Quảng Ngãi hay co) là nguyên nhân phát sinh đa số những nhà hoạt động chính trị văn hóa nổi tiếng gốc Quảng, từ Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng cho đến Phan Khôi, Nhất Linh, Hoàng Ðạo. Người Quảng ưa lý luận, dùng lý luận tranh cãi để thủ thắng. Người thành công trở thành những danh nhân chính trị. Người thất bại, thì thành nhà thơ. Những nhà thơ gốc Quảng, trong bản chất, là những người toan làm chính trị mà thất bại. Cho nên nhà thơ Quảng nào cũng có dáng dấp của Ðặng Dung. Bài thơ nào cũng phảng phất hình ảnh tráng sĩ mài kiếm chờ thời.

                 Người Quảng Nam, Quảng Ngãi có thể hãnh diện địa phương mình có nhiều nhân kiệt, và có bị người vùng khác ghen tị chất vấn, họ cũng trả lời dễ dàng. Họ không có mặc cảm gì khi bị gán cho những động từ như "cãi", "co", vì cả hai động từ ấy đều là biểu hiện của một sức sống chủ động, tự tín, lướt tới chiếm lĩnh hay ít ra cũng mạnh mẽ phản ứng để giữ đất của mình.

                Người Bình Ðịnh không có cái ưu thế nổi bật như bạn láng giềng xứ Quảng. Ca dao chê "Bình Ðịnh hay lo". Có nhiều cách giải thích về chữ "lo" này. Cách thứ nhất giải nghĩa "lo" là "lo âu", "lo lắng", "lo sợ", nói chung là trạng thái phấp phỏng trước một tương lai bất trắc, lành ít dữ nhiều, trong lúc khả năng tự vệ trước những hiểm nguy tai ương có thể bất ngờ ập đến thì không được bao nhiêu. Cách thứ hai căn cứ vào vế cuối "Thừa Thiên ních hết" của câu ca dao giải thích "lo" là "lo lót", dùng của hối lộ các quan (phần lớn là người kinh đô Huế được bổ nhậm vào) để được sống yên thân. Bằng cách giải thích nào chăng nữa, thân phận, hoàn cảnh của người Bình Ðịnh trong câu ca dao cũng không có gì sáng sủa. Trong khi người Quảng mạnh dạn tranh cãi, đôi co để giành phần thắng, người Bình Ðịnh chỉ biết thụ động ngồi chờ số phận hẩm hiu của mình, hoặc phải bỏ tiền của ra biếu xén hối lộ quan trên để được yên thân. Ðịa phương tính của Bình Ðịnh, nếu có một thứ địa phương tính, là sự nhẫn nhục chịu đựng của kẻ thất thế, là thói quen thu mình co cụm lại để thường xuyên phòng vệ, trước các thế lực lớn mạnh hơn mình.

        Người Bình Ðịnh "hay lo" từ lúc nào vậy?


                Dĩ nhiên không thể từ thời miền đất này còn mang tên phủ Tuy Viễn với dân số không đầy hai trăm ngàn người gồm một phần không nhỏ dân Chàm, người Thượng và người Việt (mà tổ tiên vốn là dân Nghệ An Thanh Hoá bị lưu đày vào miền đất heo hút này). Lúc đó, dân Tuy Viễn ngửng đầu lên mà đi, thách thức với thú dữ, rừng thiêng nước độc, thách thức với cường quyền. Nhờ thế mới có Tây Sơn. Nhờ thế mới có anh hùng Nguyễn Huệ cho cả nước chiêm ngưỡng cho đến ngày nay. Dân Tây Sơn, dân Tuy Viễn không lo lót cho ai để yên thân, và cũng không chịu ngồi bó tay để hồi hộp đón lấy tai họa.

                Phải chờ cho tới lúc Tuy Viễn đổi thành Bình Ðịnh, nghĩa là triều Tây Sơn đã đổ và nhà Nguyễn Gia Miêu lấy lại được giang sơn, bấy giờ dân Bình Ðịnh mới trở thành "ngụy dân", gia đình nào cũng có bà con thân thuộc dính dáng tới "ngụy triều", và bắt đầu hình thành một thứ nhân cách thụ động như ca dao đã nói. Là ngụy dân, tức là không được hưởng cái quyền làm dân bình thường. Muốn sống bình thường, phải che chắn để khỏi có lý lịch xấu theo tiêu chuẩn của tân triều. Phải thu mình lại, không dám khoe tài khoe của, tránh sự chú ý giòm ngó của quan trên, tránh gây óc đố kỵ ganh ghét của hàng xóm láng giềng. 
           Thái độ sống ấy là sự khôn ngoan của người nín thở qua sông. Khổ nỗi triều Nguyễn từ Vua Gia Long trở đi ngày càng trở thành thế lực cai trị chính thống, dân Tuy Viễn không có hy vọng gì lật ngược thế cờ, nên cách ứng xử khôn ngoan tưởng là nhất thời, cuối cùng trở thành một thói quen, rồi thành truyền thống, đời nọ chuyển cho đời kia. Khi những cuốn gia phả còn phải bỏ trống nhiều chi nhánh dính tới "ngụy Tây", hay con cháu nhiều đời sau còn thì thào sợ hãi khi nhắc tới tên một người lớp trước loại "bạn nghịch", thì dân Bình Ðịnh khó lòng dám mạnh miệng "co cãi" như dân Quảng. Họ luôn luôn ở thế thủ. 
             Như ngôn ngữ Bình Ðịnh, họ đều "thàng". "Thàng" không phải là hiền. "Thàng" là một chữ định hình, chứ không định tính. Người thàng, là người ít nói, tránh né những tranh chấp rắc rối, sẵn sàng chịu phần thua thiệt để giữ hoà khí, cố giữ bề ngoài đơn giản lùi xùi để không bị ai xem là kẻ quan trọng. Người thàng có thể hiền lành vì không dám làm việc dữ. Nhưng người thàng cũng có thể có những phản ứng bất ngờ dữ dội khi đột nhiên không thể chịu đựng được mãi sự thua thiệt. Người ta bảo người thàng hay cộc. Cho nên các quan lại đến cai trị dân Bình Ðịnh, nếu khôn ngoan, cũng phải luôn luôn ở thế phòng thủ. Vì dân Bình Ðịnh "hay lo" nhưng lại không thể quên cái thời bà con mình ngửng cao đầu mà đi, cái thời xuống đông đông tĩnh lên đoài đoài yên. 
 Do đó, "lo" xong lại hay kiện tụng, khiến các sử quan nhà Nguyễn khi viết về tính khí dân Bình Ðịnh phải bực bội hạ bút viết những lời ác cảm.

           Mang bản lý lịch "ngụy dân" hàng thế kỷ, người Bình Ðịnh đã mất cơ hội thăng tiến trong chính trường đã đành, mà cả trong giáo dục, kinh tế. Cuộc sống không thể cất đầu lên khỏi cái "thường thường bậc trung", và cách ứng xử không ra ngoài chữ "thàng". Trong cuộc cạnh tranh để sinh tồn, cách ứng xử ấy gây ra nhiều bất lợi, cho nên thời nào, dưới chế độ nào, dân Bình Ðịnh cũng ở thế yếu về chính trị. Thời Pháp thuộc, miền Trung trực thuộc Nam triều, dân "ngụy" yếu đã đành. Chín năm kháng chiến thuộc liên khu V, vẫn yếu trước dân Quảng mạnh dạn không ngán co cãi. Thời Việt Nam Cộng hoà, dân Bình Ðịnh trở lại bị lý lịch xấu do chín năm kháng chiến, phải "lo" trước các cấp điều khiển từ Bắc di cư vào, từ Huế gửi vô.
             Sau 1975, Bình Ðịnh sát nhập với Quảng Ngãi để thành tỉnh Nghĩa Bình, để một lần nữa Bình bị Ngãi ăn hiếp. Bây giờ Nghĩa Bình tách đôi, Ngãi về Ngãi, Bình về Bình, tài nguyên giàu có thì Bình giữ được, nhưng cái thế chính trị thì Ngãi mang đi. Quảng Ngãi mạnh thế đến nỗi buộc các nhà đầu tư ngoại quốc phải bỏ tiền lập nhà máy lọc dầu ở Dung Quất, một bãi cát trắng trơ trọi dưới nắng lửa, trong khi Qui Nhơn có bến tàu, có đường 19 mang hàng lên cao nguyên, có quốc lộ 1 thông thương nam bắc mà phải trở thành "phố cũ đìu hiu".

           Ðã dến lúc dân Bình Ðịnh cần phải cầm gương nhìn cho rõ mình, rõ cá tính địa phương của mình, xem chỗ nào tốt cần phát huy, chỗ nào xấu cần sửa chữa. Nhắc hoài đến "địa linh, nhân kiệt" không phải là thứ thuốc an thần hữu hiệu. Mà quê hương chúng ta cũng không cần những thuốc an thần, dù hữu hiệu hay giả mạo.



Nguyễn Mộng Giác
Bài sưu tầm.

HỌC BẠ CỦA GIÊSU

Cậu Giêsu, học sinh trường Nazaret, đem học bạ về nhà. Thật tình mà nói, kết quả không mấy tốt. Mẹ cậu biết thế nhưng không nói gì, bà chỉ ghi nhớ mọi sự trong lòng mà suy đi nghĩ lại. Nhưng điều gay do nhất bây giờ là phải trình học bạ này cho ông Giu-se.
Người gửi: Trường Simêôn tại Nazaret
Ngưòi nhận: Ông Bà Giuse và Maria David
Nội dung: Học bạ của Giêsu
Toán học: Hầu như chẳng làm được bài toán nào, ngoại trừ nhân bánh và cá lên nhiều lần. Không biết làm toán cộng: cậu khẳng định rằng mình cộng với Cha thành một.
Tập Viết: Không bao giờ mang tập vở bút viết đến lớp, đành phải viết trên cát.
Địa Lý: Không có khái niệm về phương hướng. Cậu khẳng định rằng chỉ có mỗi một con đường để về nhà Cha thôi.
Hóa Học: Không chịu làm các bài tập thí nghiệm gì cả, nhưng có lần Cậu đã làm cho nước hóa ra rượu nho khiến người ta cự nự nhau trong đám cưới.
Thể Dục: Thay vì học bơi như mọi người, lại ngang nhiên biểu diễn đi trên nước.
Văn Học: Khó có thể nói năng rõ ràng, nói gì cũng bằng dụ ngôn.
Vấn Đáp: Mới 12 tuổi mà Cậu đã đối đáp với các luật sĩ và kinh sư trong đền thờ khiến họ hết sức ngạc nhiên.
Kỷ Luật: Đã đánh mất mọi thứ đồ đạc, rồi tuyên bố xoành xoạch rằng mình chẳng có được một viên đá gối đầu!
Hạnh Kiểm: Có khuynh hướng thích giao du trò chuyện với kẻ lạ, bọn nghèo, hạ cấp và cánh phụ nữ trắc nết.
Vệ Sinh: Nhổ xuống đất hòa thành bùn rồi bôi lên mắt người ta tức thì họ được sáng mắt.
Sinh Vật: Dám quả quyết người ta sống không nguyên bởi bánh nhưng còn bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra.
Thiên Văn: Là người duy nhất đã thấy Xa-tan như một tia chớp từ trời sa xuống.
Kinh Doanh: Những người được mướn từ sáng sớm cậu trả cho họ một quan tiền, và những người cậu mướn vào xế chiều cậu cũng trả một quan tiền. Chưa hết, bà góa bỏ một xu vào nhà thờ, cậu nói bà ta bỏ nhiều nhất.
Tâm Lý: Cậu nói đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hoả ngục.
Lịch Sử: Cậu sẽ xây Hội Thánh của Cậu, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi vì Cậu đã thắng thế gian.
Đọc xong học bạ, ông Giu-se tự nhủ rằng tình trạng này không được kéo dài thêm, mà cần phải có biện pháp cứng rắn: “Này, Giêsu, đã như vậy thì kỳ Phục Sinh này con đành phải vác thánh giá thôi!”

*************************************
Vậy Ngài đã bảo gì với Cha mình ?
Ối trời, Cha Giuse ơi, ngày xưa, con học hành khá hơn nhiều đó chứ! Thế mà giờ lũ trẻ cứ phiên phiến ra như thế! Con chỉ còn một viên đá gối đầu thật, nhưng đâu phải là con vứt đi các vật dụng, mà là con cho nhà hàng xóm đó chứ.
Khi Mẹ Maria may cho con áo mới mặc vào mùa xuân. Con thích lắm, nhưng sáng nay, con đi dạo chơi quanh làng, thấy cậu bé ở cuối xóm, mặc bộ quần áo rách bươm, con nghĩ đồ đạc của con còn nhiều, tốt hơn của bạn ấy, thế nên, về nhà, con gói ghém và tặng bạn ấy. Lần trước, đôi dép mới Cha cho con cũng thế. Cha thường dạy, chia sẻ như thế là rất tốt phải không Cha?
Con không bao giờ phân biệt kẻ nghèo, người giàu. Con thích giao tiếp với những người bị khinh bỉ, bỏ rơi.
Nhiều người nghĩ con là người điên, nhưng cha biết con rất tỉnh táo, phải không cha? Và cha vui vì điều đó. Cha luôn dạy con phải biết yêu thương mà.
Bây giờ con buồn ngủ rồi, chúc Cha ngủ ngon. Ngày mai, con sẽ nói tiếp cho các bạn ấy hiểu, con đã học hành như thế nào, cha nhỉ!

Mong rằng học bạ của mỗi người chúng ta, có những phần như vậy.

Sưu tầm