Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Đầu tư ngàn tỷ vào doanh nghiệp nợ ngàn tỷ

(Nguoiduatin.vn) - Báo cáo tài chính quý II và 6 tháng đầu năm của Vinaconex cho thấy doanh nghiệp này đang vay và nợ các ngân hàng hơn 1.112 tỷ đồng. Trước đó, SCIC đầu tư vào đây gần 1.100 tỷ đồng, chiếm 57,79%.

Cuối năm 2011, TCty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) đã thống nhất việc đầu tư thêm vốn vào TCty cổ phần Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (Vinaconex). Và đầu năm 2012, SCIC chính thức rót gần 1.100 tỷ đồng, tăng phần vốn Nhà nước vào Vinaconex.

Báo cáo kết quả chào bán cổ phiếu ra công chúng của Vinaconex vào ngày 13/3/2012, cho thấy doanh nghiệp này đã phát hành thành công hơn 141 triệu cổ phiếu trong tổng số 200 triệu cổ phiếu được phát hành trong kế hoạch tăng vốn điều lệ từ 3.000 lên 5.000 tỷ của Vinaconex.

Với hơn 141 triệu cổ phiếu được chào bán thành công, Vinaconex đã có thêm hơn 1.400 tỷ đồng.

Theo danh sách cổ đông lớn (đính kèm báo cáo kết quả chào bán 200 nghìn cổ ohiếu) sau khi phát hành cổ phiếu tại Vinaconex, thì SCIC đã nâng mức tỷ lệ nắm giữ cổ phần tại doanh nghiệp này lên đến 57,79%.

Vinaconex đang là con nợ với con số ngàn tỷ đồng.

Một phép tính đơn giản, với số tiền mà SCIC đầu tư tăng vốn vào Vinaconex nói trên, việc áp mức lãi suất vay ngân hàng hiện nay (mức trần khoảng 15%/năm, có ngân hàng cho vay với lãi suất ngoài 20%/năm), thì với 1.100 tỷ đồng, Vinaconex phải trả lãi mỗi tháng trả 12,5 tỷ, mỗi năm riêng tiền lãi thì doanh nghiệp này phải trả là 150 tỷ, tức khoảng 8 triệu USD.

Bảng biểu Vinaconex nợ các tổ chức tín dụng trong nước. Đơn vị: tỷ đồng.

Trong thông báo việc phát hành thêm 200 triệu cổ phiếu mới đây, Vinaconex cho biết nhằm huy động vốn để bổ sung vốn lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư thực hiện một số dự án bất động sản, đồng thời “tái cơ cấu nợ vay, cơ cấi nguồn vốn trung và dài hạn, tăng quy mô hoạt động cho Tổng công ty”.

Trong khi đó, tình hình tài chính của Vinaconex cũng không mấy phần sáng sủa, với số nợ ngân hàng được xác định lên đến cả nghìn tỷ đồng.

Báo cáo tài chính quý II và 6 tháng đầu năm của Vinaconex cho thấy "ông lớn" này đang vay và nợ các ngân hàng hơn 1.112 tỷ đồng. Trong đó, nợ ngắn hạn khoảng 400 tỷ, còn nợ dài hạn đến hạn trả khoảng 712 tỷ đồng. Với khoản nợ dài hạn tới hạn trả, Vinaconex đang vay ngân hàng nước ngoài hơn một nửa (khoảng 467,4 tỷ đồng), còn vay ngân hàng và quỹ trong nước gần 246 tỷ đồng.

Trước đó, giữa tháng 4/2010, Ủy ban Kiểm tra (UBKT) Trung ương có thông báo về kết quả kỳ họp thứ 31. Theo đó 42 vụ việc đã được thảo luận, quyết định và kết luận, trong đó có vụ việc tại Tổng Công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC). UBKT Trung ương kiểm tra dấu hiệu vi phạm đối với lãnh đạo Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) và đã kết luận có thiếu sót, khuyết điểm. UBKT Trung ương đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét, xử lý về mặt tổ chức, theo Thông tấn xã Việt Nam.

Hải Yến

Trịnh Hội - Ðêm nguyện cầu

Trịnh Hội/VOA Blog

Cũng lâu. Lâu lắm rồi tôi mới đi cầu nguyện. Chắc cũng phải mười mấy năm rồi. Từ năm 1999 khi tôi cùng nhóm bạn luật sư ở Hồng Kông tham dự đêm thắp nến tưởng niệm lần thứ mười ngày đẫm máu 4 tháng 6 ở Thiên An Môn.

Mới thấy đó mà đã hơn 13 năm rồi.

Tôi ít khi đi biểu tình, thắp nến cầu nguyện. Có lẽ vì lớn lên ở Úc tôi thấy có nhiều cách để người dân nói lên tiếng nói phản kháng của họ. Viết bài. Viết báo. Hay tự đến gặp dân biểu trình bày ý kiến của mình. Nếu cần thiết, có thể thành lập hội đoàn, các tổ chức đứng ra trực tiếp tranh đấu cho những vấn đề mình quan tâm. Bất kể đó là vấn đề gì. Công hay tư.

Liên quan đến nơi mình đang sinh sống hay ở một xứ xa xôi nào đó.

Bất cứ lúc nào những người dân thường như tôi cũng được cho cơ hội để nói, để bàn cãi. Vấn đề quan trọng ở chỗ mình có trình bày hay, mạch lạc đủ để mấy ông lớn sẵn lòng lắng nghe và thay đổi quan niệm, chính sách của họ hay không. Chứ chẳng có ai cấm cản hay tuyệt đối hoàn toàn không có ‘cửa’ để trình bày.

Tôi ít khi đi biểu tình, thắp nến cầu nguyện là vì thế.

Bởi vậy trong suốt gần hai thập niên qua, có lẽ tôi chỉ tham gia được một vài buổi biểu tình. Mà phần lớn đều liên quan đến chuyện… người ta.

Chuyện cựu Tổng Thống Estrada tham nhũng đến độ bị người dân Phi lật đổ. Hay chuyện những nhà lãnh tụ cộng sản đại tài ở Bắc Kinh cho xe tăng vào Thiên An Môn giết một loạt sinh viên của nước mình để đỡ nhức đầu, cho xong chuyện.

Chứ chuyện nhà, những chuyện liên quan đến biểu tình đối với các vấn đề ở Việt Nam thú thật tôi ít khi tham gia. Mãi cho đến hôm tuần trước khi tôi cùng một số bạn bè Việt Nam quyết định đi biểu tình thắp nến cầu nguyện ở thủ đô Manila để cùng phản đối chính sách ‘du côn’ của Trung Quốc trên biển Đông. Mà chúng tôi, cả Việt Nam lẫn người dân Phi Luật Tân có mặt ngày hôm đó gọi vắn tắt là ‘Chinese bullying’.

Không có chữ nào ngắn gọn và chính xác bằng chữ này. Và cũng không có từ nào nói rõ hơn cái thói ỷ mạnh, hiếp yếu, chuộng võ lực của những kẻ từ phương Bắc. Nếu họ đã dám ra lệnh giết chết chính những người con ưu tú của họ, để cả một thế hệ lớn lên trong sợ hãi, hoàn toàn mất đi sự phản kháng cần phải có của tuổi trẻ thì chắc chắn một điều, người Việt Nam hay người Phi Luật Tân, những lợi ích quốc gia của các nước láng giếng, có chính đáng hay không, chẳng là gì trong mắt họ.

Không phải ngẫu nhiên mà từ ngàn xưa họ đã tự đặt cho mình cái tên: Trung Quốc. Một quốc gia đứng ngay giữa. Là cái rốn của vũ trụ. Tất cả đều phải quay quanh họ.

Cũng may là thế giới này tròn chứ chẳng phải vuông như họ tưởng. Cũng may là thế giới này sẽ tiếp tục tự nó quay tròn chứ chẳng phải xuôi theo bất kỳ thế lực nào. Cho dù nó có mạnh đến bao nhiêu.

Cũng may là trên thế giới này còn rất nhiều người sẵn sàng đứng lên đáp trả cái tính du côn ngày càng hung hãn của họ. Như tôi đã chia xẻ với những người Phi tham dự trong đêm hôm ấy.

Tôi đã chia xẻ là tôi cảm thấy rất vinh dự (honored) và may mắn (blessed) được tham dự. Tôi cảm thấy vinh dự vì hôm đó đã có rất nhiều người Phi, những người thành công trong xã hội đến góp mặt, từ ca sĩ Gary V đình đám, các mục sư, đức giám mục nổi tiếng, cho đến dân biểu, cựu Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Roilo Golez, thượng nghị sĩ trẻ Cayetano, các ca đoàn, hội đoàn USPGG (US Pinoys for Good Governance) dưới sự điều động và dẫn dắt của một trong những nữ thương gia thành công nhất của nước Phi, bà Loida Lewis.

Tôi bảo ước chi những người đang cầm quyền ở nước tôi cũng tạo điều kiện cho người dân được giải bày như thế. Để không chỉ có một vài trăm người dám nói, dám làm, dám xuống đường bất kể khó khăn mà nó sẽ là dịp để tất cả mọi thành phần trong xã hội Việt Nam từ ca sĩ, diễn viên, cho đến các thương gia, sinh viên, học sinh, các thầy, các cha… được một lần nói rõ cho Bắc Kinh biết là dân tộc Việt Nam không bao giờ và chưa bao giờ khiếp sợ trước cái thói du côn, du đãng của họ.

Tôi cũng bảo tôi cảm thấy may mắn vì trong cùng một ngày những người dân Phi hiền hòa đã cho tôi thấy sự phản đối rất có chừng, có mực của họ. So với thái độ hung hãn, chen đẩy, xô lấn, để lật cho được một chiếc xe hơi chỉ vì nó mang nhãn hiệu ‘Made in Japan’, của những người Trung Quốc phản đối việc một số người Nhật có mặt trên một quần đảo mà họ hiện đang tranh chấp với Nhật.

Hình ảnh này đã được chiếu đi, chiếu lại nhiều lần trên CNN.

Nghĩ cũng lạ. Mình cho tàu, cho lính đi qua một quần đảo khác, một nơi đang có nhiều quốc gia tranh chấp, để bắt họ, giết họ, sau đó lấy bảo là của mình thì… OK. Nhưng có một ai đó, một dân tộc nào đó dám đứng lên mạnh miệng bảo rằng: không, quần đảo đó không phải là của bạn thì ngay lập tức bạn dở thói côn đồ, hung hãn, nhảy đổng vào chửi rủa thậm tệ.

Ủa? Vậy là sao?

Lời cuối cùng tôi chia xẻ trong ngày hôm ấy cũng là lời cầu nguyện và hy vọng của chính tôi. Đó là chúng ta sẽ xử dụng luật quốc tế, dùng tòa án quốc tế để giải quyết những xung đột quốc tế. Chúng ta không nên và không thể đàm phán song phương khi đây không phải là một vấn đề song phương. Chưa kể đến cái thế của những nước nhỏ, yếu kém về cả tài chính lẫn quân sự, khi chúng ta đồng ý đàm phán song phương điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đồng ý để họ chia rẽ chúng ta. Để chiến thắng chúng ta.

Divide then Conquer.

Đó là ý đồ của họ. Là chính sách của họ. Là lý do tại sao họ nhất quyết từ chối sự tham gia của các cơ quan, tòa án quốc tế để giải quyết những tranh chấp trên biển Đông.

Vì vậy, chúng ta cần phải đoàn kết. Hơn bao giờ hết, dân tộc Việt Nam và dân tộc Phi Luật Tân cần phải đoàn kết trước hiểm họa chung. Một hiểm họa xuất phát từ một chế độ độc tài, độc đảng sinh ngạo mạn, lỗ mãng.

Nguồn: Blog Trịnh Hội/VOA

VỤ ÁN BẦU KIÊN “CÚ ĐẤM” CHIẾN THUẬT HAY “CÚ HÍCH” CHIẾN DỊCH ?

Phạm Viết Đào. Nếu quả thực vụ án này được sử dụng như là một vụ án mẫu, vụ án điểm để làm bàn đạp đầy lùi các tệ nạn, củng cố lại được lòng tin của nhân dân vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và vai trò cá nhân các vị đang nhận lãnh trọng trách lớn trong bộ máy Đảng, Nhà nước, Chính phủ.Như vậy vụ án Bầu Kiên sẽ trở thành vụ án điểm, vụ án mẫu để chứng minh bản lĩnh và mang tính chất nêu gương, thiết lập lại kỷ cương, chấm dứt một giai đoạn rối loạn, làm loạn ? Hay...
Cơ quan Điều tra Bộ Công an đã khởi tố bị can, bắt giam Nguyễn Đức Kiên về tội “kinh doanh trái phép”. Cơ sở để điều tra ông Kiên xuất phát từ đơn tố cáo vi phạm pháp luật xảy ra tại ba công ty do ông Kiên làm Chủ tịch HĐQT gồm: Công ty CP Đầu tư thương mại B&B; Công ty CP Đầu tư ACB Hà Nội và Công ty TNHH Đầu tư tài chính Á Châu Hà Nội. Ông Kiên đã thành lập một số công ty để kinh doanh tiền tệ trái phép; Hành vi này nếu không được ngăn chặn kịp thời, sẽ gây “lũng đoạn” một số ngân hàng.
Theo báo Tuổi trẻ: “Đây là 3 công ty do bầu Kiên thành lập với vốn điều lệ 2.300 tỉ đồng. Từ cơ sở kinh doanh của 3 công ty này, cũng theo Tuổi trẻ, Bầu Kiên đã:”Lập phương án kinh doanh “khống” để vay tiền;”Mặc dù cả ba công ty nói trên không có chức năng đầu tư tài chính nhưng ông Nguyễn Đức Kiên vẫn sử dụng pháp nhân của chúng để tham gia vào lĩnh vực tài chính. Với khoản vốn điều lệ khổng lồ và uy tín của mình trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, ông Kiên đã xây dựng nên hình ảnh những công ty mạnh về kinh tế, khả năng kinh doanh mang lại hiệu quả kinh tế cao. Từ đó, ông Kiên lập các phương án kinh doanh lớn nhằm nâng giá trị tài sản của công ty lên, tạo ra uy tín về mặt tài chính. Hiện cơ quan điều tra tình nghi những phương án kinh doanh này đều là phương án “khống” được vẽ ra để lấy lòng tin của khách hàng, ngân hàng khi tham gia đầu tư vào công ty của ông Kiên cũng như để ông Kiên sử dụng trong việc đầu tư tài chính trái phép”.
Một dấu hỏi đặt ra: nếu Bầu Kiên chỉ có phạm tội như vậy thì tội danh của Kiên cũng chỉ mang tính chất hình sự cá lẻ, liên quan tới một số ngân hàng mà Bầu Kiên giao dịch, vay tiền.Nếu vậy, vụ bắt Bầu Kiên chỉ là một vụ án “ gặp may “ của cơ quan chức năng: do có đơn tố cáo về hành vi kinh doanh trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng nên bắt giữ Bầu Kiên; Bầu Kiên vô tình trở thành “ vật thiết lễ “ cho cuộc vận động chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết 4 ?
Theo suy đoán của nhiều người: bắt giữ Bầu Kiên không đơn thuần là một cú ra đòn ngẫu hứng của cơ quan chức năng mà là một cú đột phá, mở màn giống như trận Buôn Ma Thuột 1975.Bắt bầu Kiên là một cú điểm huyệt vào hệ thống mafia tiền tệ đang khuynh loát nền kinh tài Việt Nam, cú hích này đã tạo ra những chấn rung tới thị trường chứng khoán, đã kéo nhiều ông lớn cả ngân hàng lẫn chính phủ phải lao vào cuộc...Theo người viết bài này: bắt được bầu Kiên có giá hơn so với bắt Phạm Thanh Bình ( Vinashin) và Dương Chí Dũng ( Vinalines)...
Rất có khả năng: Bầu Kiên là một trong những mắt xích, vừa là “tác giả kịch bản” kiêm “ tổng đạo diễn” kiêm “ diễn viên” của nhiều màn ảo thuật từng lũng đoạn ngành ngân hàng-tài chính; Rất có thể Bầu Kiên là một trong những mắt xích quan trọng của cái đường dây biến ảo hàng trăm ngàn tỷ đồng tiền của nhà nước bấy lâu nay thành những đống sắt vụn, những khoản nợ khó đòi, những hợp đồng nợ xấu giời ơi đất hỡi đang được Thống đốc Nguyễn Văn Bình diễn đạt một cách nhàm tẻ, mệt mỏi, loanh quanh tại diễn đàn Quốc hội...
Theo thông tin các báo: Bầu Kiên trưởng thành trên thương trường bắt đầu từ anh sinh viên buôn bán xách tay hàng từ Đông Âu về Việt Nam; gặp thời vận: Việt Nam trả nợ cho Hungari, nơi Kiên học đại học và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chiến tranh bằng hàng hóa Việt Nam; Kiên được giao đứng ra thu gom và triển khai dịch vụ kinh doanh này và đã phất lên...
Theo một vài nguồn tin: Trong khi các các sinh viên khác đang mang hàng 2 chiều bằng phương thức xách tay thì Kiên đã nhanh chóng vượt họ; chở về Việt Nam hàng công tơ nơ hàng từ Việt Nam đi và chở thuốc từ Hungari về...Từ cái nền và điểm xuất phát cò con này mà Kiên phất lên:Từ năm 1994 đến 2006, bầu Kiên đảm nhận nhiều vị trí như Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng Á Châu, Chủ tịch HĐQT Công ty May thời trang MTT, Chủ tịch HĐQT Công ty Thiên Nam, Chủ tịch HĐQT Công ty Liên doanh nhựa đường Caltex, Chủ tịch HĐQT Công ty Thể thao ACB, Phó chủ tịch kiêm Chủ tịch Công ty liên doanh KFC Việt Nam, Phó chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần du lịch Chợ Lớn, thành viên HĐQT Công ty Cổ phần du lịch Thiên Minh...
Theo báo CATPHCM: Thế cho nên năm 2008, tài sản tính bằng cổ phiếu của bầu Kiên trong ngân hàng này là gần 1.000 tỷ đồng, nhưng đến năm 2010 chỉ còn khoảng 800 tỷ đồng. Tổng số tài khoản của gia đình ông Kiên tính theo thị trường chứng khoán năm 2010 là khoảng 2.000 tỷ đồng...
Thực ra những số liệu trên vẫn là những số liệu mang tính chất bề nổi, nhiều khi rất xa với sự thật bởi để kiểm đếm tài sản của những phần tử hoạt động kinh doanh trong bóng tối là việc chẳng khác gì đếm cá dưới sông. Điều này chắc cơ quan chức năng cũng đang hướng mục tiêu phá án này sau khi bắt Bầu Kiên?
Về cái gọi là “tội phạm thâu tóm ngân hàng” mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “yêu cầu điều tra, xử lý nghiêm minh bất kỳ đó là ai, thực ra suy cho cùng một kẻ như bầu Kiên, chỉ sử dụng tiền không thì cái giá để thâu tóm đâu có thấp, lãi suất chắc không cao; phải dùng quyền lực chính trị nhà nước thì mới lãi to, cái này Kiên đâu có được sở hữu...
Tóm lại cái tổ con chuồn, những mảng miếng giúp Bầu Kiên hốt bạc của thiên hạ vẫn chưa ai hình dung ra kể cả Thủ tướng; do vậy các thông tin ban đầu trên báo rất sơ sài và rất thiếu sức sống nếu không muốn nói là còn nhiều mâu thuẫn, “ đầu Ngô mình Sở”, vì vậy nên nó đang gây hoang mang dư luận...
Hiện nay tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng thường có mấy dạng đáng lưu ý như sau:
1/ Cò ngân hàng
Đây là loại tội phạm sử dụng quan hệ và phạm vi ảnh hưởng với giới chức ngân hàng và quan chức chính phủ để điều tiết các khoản vay lớn; loại tội phạm này tham gia vào đường dây chung chi khoản tiền vay được của ngân hàng; Hoạt động nầy thịnh hành vì nền kinh tế Việt Nam tuy đã được thị trường hóa nhưng vẫn bị tàn dư của cơ chế xin-cho ảm ảnh, chi phối...Theo thông tin vỉa hè thì cái khoản chung chi này có khi lên tới 30 % trên tổng số tiền được vay; Mặc dù khoản chung chi cao nhưng lại phải chia năm sẻ bảy nên thu nhập của từng cò cũng có mức độ khó lòng giàu bốc lên được...
2/ Dựng lên các đề án “kinh doanh ma”, các “dự án âm phủ” để rút tiền ngân sách ra chia nhau; Hay nói cách khác: Cò dự án chính phủ...
Đây là loại tội phạm nguy hiểm và thường gắn với các dự án của chính phủ và các tập đoàn kinh tế lớn của nhà nước, ví như trường hợp Vinashin, Vinalines? Bởi chỉ có những dự án mang danh Chính phủ và các tập đoàn kinh tế nhà nước có nhãn mác lớn, bắt mắt nên việc tiêu tiền chùa, việc rút ra tẩu tán, tiêu hóa nó rất nhanh; sau đó số tiền ăn gian này được đẩy vào loại nợ xấu, nợ khó đòi, kinh doanh ra ngoài ngành không hiệu quả...
Cái cỗ máy bày ra trò ảo thuật này đã tinh quái biến những hành vi bản chất là tham ô, biển thủ công quỹ trở thành hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm, do dốt nên gây hậu quả nghiêm trọng; tham gia vào đường giây chung chi những khoản tiền gian này là bẫm nhất, an toàn hơn, ra tấm ra miếng hơn...
Bởi vì: nếu bị kết tội tham ô thì số tiền 1 tỷ theo Luật Hình sự đã có thể bị tử hình; Trong khi đó hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng hay tội cố ý làm trái có thất thoát lên tới hàng tỷ USD nhưng Phạm Thanh Bình cũng chỉ bị kết án 20 năm tù...
Như chúng ta đều biết: Để vay được vốn ngân hàng; bất cứ ngân hàng nào khi ra quyết định cho vay cũng làm khá nghiêm ngặt khâu thẩm định dự án; tức phải là những dự án kinh doanh thật, mang lại hiệu quả thì mới được giải ngân. Riêng đối với các dự án nhất là của các tập đoàn kinh tế mang danh Chính phủ thì phần thủ tục này đôi khi chỉ cần căn cứ vào nghị quyết nọ kia, thậm chí đôi khi chỉ cần một cú phôn là có thể hợp thức xong cả công đoạn thẩm định dự án nhiêu khê loằng ngoằng và đầy các thủ tục ràng buộc pháp lý...
Việc “ bay hơi “ nhanh trong một vài năm, để lại rất ít vết tích những khoản tiền lên tới hàng tỷ USD trong các vụ án Vinashin, Vinalines và ở một số tập đoàn kinh tế nhà nước cho phép chúng ta suy đoán: nhất định đằng sau nó phải có cả một “dây chuyền công” được chế tác bởi các chuyên gia cự phách...
Liệu Bầu Kiên có chân trong cái “ dây chuyền công nghệ “ được các tập đoàn tội phậm lập ra các đề án “kinh doanh ma”, các “dự án âm phủ” để rút tiền ngân sách ? Cần nên hiểu do những nét đặc thù của loại hoạt động này: các vở kịch biến ảo này rất nhiều khi tác giả kịch bản kiêm đạo diễn, kiêm diễn viên lại cũng ảo nốt, ít khi giơ đầu chịu báng bởi chúng chỉ đứng sau hậu trường...Thành ra những kẻ chường mặt ra như Phạm Thanh Bình ( Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinashin ), Dương Chí Dũng ( Chủ tịch Hội đồng quản trị Vinalines ) nhiều khi giá trị vật chứng pháp lý lại không khác mấy con rồi do kẻ khác lập trình các hành vi, do vậy nên sau khi vụ án xảy ra việc bắt tội và quy tội nhất là tội tham ô, tham nhũng thường rất khó; mặc dù số tiền thất thoát lớn nhưng lại không phát hiện ra được nó vào túi ai ? Và một nghịch lý: Có khi kẻ vớ bẫm lại không phải chịu trách nhiệm hình sự gì vì chúng nấp trong bóng tối, sau lưng kẻ có quyền lực; Kẻ có quyền lực đôi khi lại chỉ là kẻ hưởng xái vì thế thường nhận mức án: Thiếu tinh thần trách nhiệm ?!
Vậy Bầu Kiên có chân trong những đường dây kể trên không? Đây là dấu hỏi mà nhiều người đang đặt ra với Ban Chuyên án trong kỳ án này; Bởi nếu không là Bầu Kiên thì nhất định phải có những kẻ như y tham gia vào loạt hoạt động tội phạm này. Đó là điều có thể giải thích vì sao có những kẻ tự nhiên giàu lên rất nhanh, trở thành đại gia mà mà không thấy sản xuất-kinh doanh mặt hàng gì ra hồn...Sản phẩm kinh doanh của loại cò này thường là: những đống giấy lộn, những tạp dự án; những thiết bị sắt vụn nhưng được thanh khoản bằng những đống tiền tươi thóc thật rút từ trong kho nhà nước; Đấy mới chính là loại hình kinh doanh có lãi suất cao nhất, thời thượng nhất,tốn ít công sức nhất, ít rủi ro nhất, ngon lành nhất đám tội phạm này dựa một thế lực chính trị đang mạnh cánh...
Để bóc mẽ ra loại tội phạm này ngoài tài năng, nghiệp vụ sắc bén, sự kiên cường của cơ quan chức năng chỉ đạo; cần đòi hỏi lực lượng đi phanh phui, chống lại loại tội phạm này phải mẫn cán, trung thành và cũng phải được hậu thuẫn bởi một thế lực chính trị mạnh cánh thì mới khoan phá được những ổ đề kháng, bonker kiên cố, những “bát trận đồ” ngăn cản, chống trả và đủ khả năng làm rối loạn mất phương hướng các mũi đột phá...
Trong cuộc ra quân lần này, được triển khai theo chiến dịch chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết 4, dư luận phần nào đặt niềm tin vào người đứng đầu TBT Nguyễn Phú Trọng, một nhà lãnh đạo cho đến thời điểm hiện tại chưa thấy tì vết gì, tai tiếng gì; Về năng lực người ta có thể đặt những dấu hỏi về ông nhưng về phẩm chất cá nhân, hiện ông là người chưa bị điều tiếng gì; là Chủ tịch nước Trương Tấn Sang một chính khách có bản lĩnh chính trị ngoan cường; Là Bộ trưởng Trần Đại Quang, ủy viên Bộ chính trị trẻ nhất, ông ssinh 1956; người mà tiền đồ chính trị còn đang rất rộng mở...Nếu quả thực vụ án này được sử dụng như là một vụ án mẫu, vụ án điểm để làm bàn đạp đầy lùi các tệ nạn, củng cố lại được lòng tin của nhân dân vào bộ máy lãnh đạo của Đảng và vai trò cá nhân các vị đang nhận lãnh trọng trách lớn trong bộ máy Đảng, Nhà nước, Chính phủ.Như vậy vụ án Bầu Kiên sẽ trở thành vụ án điểm, vụ án mẫu để chứng minh bản lĩnh và mang tính chất nêu gương, thiết lập lại kỷ cương, chấm dứt một giai đoạn rối loạn, làm loạn...
Vấn đề chuyên án có mở rộng đến cùng, tới đáy của vấn đề nhằm truy kích và thiết lập lại trật tự trong lĩnh vực cốt tử ngân hàng-tiền tệ này còn thuộc vào tài năng và sự kiên cường của ban chuyên án, những người trực tiếp tác chiến.
Để lần ra đường dây thao túng này, vẫn có thể tìm ra bằng nghiệp vụ ngân hàng tiền tệ mà các các cơ quan chức năng chống rửa tiền quốc tế vẫn áp dụng thì vẫn có thể tìm ra những nguồn gốc của những đồng tiền đen tiền bẩn, tiền phi pháp của những kẻ như Bầu Kiên...Nếu cơ quan chuyên án kết hợp với các cơ quan thanh tra chuyên ngành truy tìm ráo riết các nguồn tiền ra vào các tài khoản của Bầu Kiên và những kẻ tình nghi thì vẫn có thể lần tìm ra dầu vết vì: số tiền đó lên tới hàng trăm, hàng ngàn tỷ đồng chuyển qua lại của hệ thống ngân hàng...
Một con người thân cận, có khả năng vào ra cửa sau của nhiều quan chức chính phủ, ngân hàng như Bầu Kiên khó lòng bỏ qua mảng miếng làm ăn bự này; Chính mảng làm ăn này, mới có thể giải thích thỏa đáng cho những khoản tài sản lớn mà Bầu Kiên có được trong một thời gian ngắn, trong cái thời buổi người khôn của khó này ?! Còn những mặt hàng kinh doanh mà bầu Kiên kê khai trong giấy phép thì khi triển khai, lo được đủ lương cho công nhân, trả được nợ ngân hàng, lo được nghĩa vụ thuế đã là tài lắm rồi; lấy đâu ra tiền để đi những con xe mấy chục tỷ đồng ?
Tóm lại, vụ án Bầu Kiên nếu không được đẩy tới cùng, làm cho ra nhẽ và được bạch hóa thông tin thì dễ dẫn tới những hậu quả kinh tế-chính trị phản tác dụng, “phản lực” khó lường định; Vụ án Bầu Kiên đổ bể cũng giống như một lần thiết chế quản lý ngân hàng, tiền tệ được một lần tiêm chủng ngừa bệnh; Nếu sự tiêm chủng này không đủ liều, dẫn tới việc những virus ủ bệnh được miễn dịch trở nên lỳ lợm, nguy hiểm và hung tợn hơn khi gặp thời cơ ?!
P.V.Đ.

Luận án tiến sỹ về… tắm giặt và nghịch lý của tri thức

Cập nhật 29/08/2012
Với con số trên 9.000 giáo sư và phó giáo sư, hàng trăm ngàn tiến sĩ và thạc sĩ, Việt Nam đang trở thành một trong những nước có học hàm học vị vào hàng “khủng”. Tuy nhiên, phần lớn các học hàm này lại chủ yếu phục vụ cho… sự thăng tiến, trong số đó, có không ít đề tài kiểu như: Chuyện tắm giặt cho chiến sỹ miền núi.
Hình minh họa
Hình minh họa
Những đề tài vô bổ
Việc đào tạo bậc học trình độ cao (thạc sĩ, tiến sĩ) là nhiệm vụ đầu tàu của giáo dục. Để làm tốt bậc đào tạo này, đầu tiên, phải đặt lên hàng đầu chất lượng luận án. Tuy nhiên, có một thực tế mà theo những người trong cuộc, có rất nhiều trường hợp được “du di” rất dễ dàng, tức luận án chất lượng kém vẫn được bảo vệ, bởi vì hoặc quan hệ đặc biệt. Có lẽ vì thế, ở Việt Nam, rất hiếm có luận án tiến sĩ nào bị đánh trượt.
Chính vì thế, ngành giáo dục cũng thừa nhận trong một hội nghị đào tạo sau ĐH rằng: có không ít luận án tiến sĩ “vô bổ”. Đơn cử tiêu đề luận án của một nghiên cứu sinh của ĐHSP Hà Nội: Nghiên cứu nhận thức của sinh viên ĐHSP về sức khỏe sinh sản. Và một trong ba kết luận tác giả đã rút ra được là: “Luận án tiến hành nghiên cứu thực trạng nhận thức của sinh viên ĐHSP về sức khỏe sinh sản ở 3 mức: biết, hiểu, vận dụng. Kết quả nghiên cứu cho thấy giả thiết của đề tài là đúng. Đa số sinh viên ĐHSP nhận thức về sức khỏe sinh sản đạt mức hiểu, mức vận dụng còn hạn chế. Mức độ nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Ảnh hưởng của các nhân tố đến nhận thức của sinh viên về sức khỏe sinh sản theo mức độ giảm dần...”.
Không hiểu một kết luận như thế có đạt được yêu cầu tối thiểu của một luận án tiến sĩ là giúp cho việc phát triển hay mở rộng những vấn đề quan trọng của một ngành khoa học thông qua các nghiên cứu sáng tạo, mới mẻ và độc đáo hay không?.
Một vài luận án tiến sĩ kiểu như trên nữa: “Các biện pháp tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho học sinh trung học phổ thông”... Và cách đây vài năm, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Bành Tiến Long cũng “sốc” với luận án khá khôi hài về: “Tắm giặt cho chiến sỹ miền núi”…
Rào cản
Sở dĩ có những câu chuyện hài hước trên là bởi trong số hàng ngàn giáo sư, tiến sỹ thì những nhà khoa học thực sự đi vào nghiên cứu học thuật rất ít - chỉ chiểm khoảng 30%. Và trong số này, họ lại là những người “ thợ giảng” với hàng ngàn tiết học mỗi năm thì không thể lấy đâu ra thời gian nghiên cứu khoa học. Còn lại, một số lượng lớn trong họ là quan chức, bằng cấp là để thăng tiến chức vụ, không phục vụ cho hoạt động khoa học.
Tuy nhiên, bên cạnh những hư danh, chúng ta cũng có những nhà khoa học không thua kém các nước, tuy chưa nhiều nhưng cũng có thể làm ra những sản phẩm ứng dụng và có những sáng chế đẳng cấp quốc tế. Và để phát huy được nguồn lực đó, không đơn giản chỉ là nỗ lực cá nhân mà còn có tác động tích cực từ các chính sách phù hợp và tâm huyết.
GS. TSKH Vũ Minh Giang - Phó Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng mục tiêu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại vào năm 2020 đang đến rất gần, trong khi chúng ta đang rất thiếu nhân lực chất lượng cao, nhà khoa học đầu ngành.
Trước hết, phải thẳng thắn thừa nhận, có phần nào đó giới khoa học vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu, đòi hỏi thực tế. Thế nhưng nhìn lại cũng thấy, không ít nhà khoa học Việt Nam ra nước ngoài tham gia vào chương trình nghiên cứu, đề tài khoa học và phát huy được thế mạnh của mình. Câu hỏi đặt ra là, tại sao lại ở môi trường khác họ mới phát huy được năng lực của mình?. Thực tế ấy đòi hỏi chúng ta phải xem xét cơ chế, chính sách; có bất hợp lý gì trong vấn đề sử dụng nhân lực khoa học công nghệ không?.
Theo GS TS Vũ Minh Giang thì có ba nguyên nhân cơ bản dẫn đến cản trở đội ngũ khoa học công nghệ phát triển. Đó là rào cản ở khâu quản lý; thiếu những chính sách cụ thể, nhất là đãi ngộ cho các nhà khoa học có trình độ cao và cần những cơ chế hợp lý để trọng dụng, kích thích sự phát triển.
Cũng liên quan đến vấn đề tài chính, các nhà khoa học Việt Nam rất khó tiếp cận và tự đi học tập, nghiên cứu, công bố công trình, các hội nghị, hội thảo… ở nước ngoài vì năng lực tài chính không có. Nếu tham dự hội nghị ở nước ngoài, thường ban tổ chức cung cấp kinh phí thì các nhà khoa học nước ta mới có thể tham gia. Rất ít, thậm chí rất hiếm nhà khoa học nước ta có thể tự đi tham gia hội nghị ở nước ngoài.
Thêm nữa, trong điều kiện còn thiếu thốn về cơ sở vật chất nghiên cứu và thiếu thốn chuyên gia, khoảng 80% các nghiên cứu khoa học ở nước ta đều phải hợp tác với nước ngoài. Chỉ có 20% các công trình nghiên cứu hoàn toàn do người Việt thực hiện.
Các nghiên cứu khoa học ở nước ta vẫn chủ yếu tập trung vào các ngành mang tính lý thuyết (như toán học và vật lý lý thuyết) và còn rất yếu trong các lĩnh vực ứng dụng như khoa học đời sống và môi trường.
Uyên Na

Trung Quốc (CNOOC) tiếp tục mời thầu trái phép ở Biển Đông

Tin hay: Học giả Trung Quốc kêu gọi chính phủ bỏ “đường 9 đoạn”

Đức Vũ

Các chấm đỏ xác định vị trí 26 lô dầu khí đang được CNOOC mời thầu quốc tế.

Tổng công ty dầu khí Hải dương Trung Quốc (CNOOC) lại tiếp tục mời thầu quốc tế ở 26 lô dầu khí trên Biển Đông, trong đó có 22 lô nằm vùng Biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam. Tổng diện tích mời thầu lần này lên tới 73.754 m2.

Đây là đợt mời thầu lớn nhất của CNOOC ở Biển Đông và biển Hoa Đông kể từ thập niên 90 của thế kỷ trước.

Thông báo về đợt mời thầu này được đưa ra 2 tháng sau khi CNOOC mời các công ty nước ngoài tham gia khai thác ở 9 lô dầu khí trên tổng diện tích 160.012,39 km2 thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, buộc Việt Nam phải lên tiếng phản đối.

“Trong số 26 lô được mời thầu có 1 lô nằm ở vịnh Bột Hải, 3 lô ở biển Hoa Đông, 18 lô ở mạn phía đông của Biển Đông và 4 lô còn lại ở phía tây Biển Đông”, thông cáo của CNOOC cho biết.

Trong 18 lô thuộc phần phía đông Biển Đông có 5 lô ở tầng sâu trung bình, 3 lô thuộc vùng nước sâu và 5 lô vùng nước nông.

Hãng tin Bloomberg cho biết một trong các lô gọi thầu lần này là lô 65/12 nằm cách quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam khoảng 50 km, ngay gần lô 65/24 mà trước đó Việt Nam đã phản đối Trung Quốc gọi thầu.

Một lô khác, lô 41/08, nằm gần quần đảo tranh chấp với Nhật Bản mà hai bên lần lượt gọi là Điếu Ngư và Senkaku.

Trước đó, vào tháng 6, CNOOC cũng thông báo chào thầu quốc tế trái phép đối với 9 lô dầu khí thuộc đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, khiến Bộ Ngoại giao Việt Nam cực lực bác bỏ.

Theo Bộ Ngoại giao Việt Nam, khu vực thông báo mở thầu quốc tế của Trung Quốc “hoàn toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa của Việt Nam theo quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982” và “hoàn toàn không phải là khu vực có tranh chấp”.

Tuy nhiên, Trung Quốc vẫn ngang nhiên cho rằng đợt mời thầu này tuân thủ luật Trung Quốc và quốc tế, bất chấp phản ứng của Việt Nam và cộng đồng quốc tế.

Theo Bloomberg/ Dân Trí

Xin đừng cai trị dân bằng sự ngu xuẩn!

Hà Văn Thịnh

Công việc nhiều, nhưng chính là… nỗi sợ và sự mệt mỏi không biết nên viết cái gì đã làm cho tôi im lặng hơi lâu lâu. Vừa đọc xong bài Ai có thể lừa được một siêu lừa của Minh Diện, tôi như có thêm can đảm để viết những dòng này.

Trước hết, xin lỗi bạn đọc vì dùng từ quá nặng nề nhưng tôi đã thử tìm các từ thay thế cho chữ ngu xuẩn như “kém cỏi”, “thiếu trách nhiệm”, “khinh dân”…; nhưng đều thấy không ổn! Đành phải nhận chân sự việc bằng một từ hơi ù tai và đau mắt vậy.

Cách đây vài năm, có một lần GS Nguyễn Huệ Chi email cho tôi đại ý rằng “Thịnh phải viết nhẹ hơn (ý nói là nên “văn hóa” hơn) bởi cái dốt nát của nhiều vị lãnh đạo là điều ai cũng biết. Họ không dốt thì việc gì mình phải viết”. Câu nói đó (đại ý, nhưng xin để trong ngoặc kép cho trân trọng) cứ ám ảnh tôi hoài và, càng ngày càng thấy đúng. Thấy đúng càng nhiều thì càng chán cho nhân tình thế thái, đến mức không chịu được nữa thì lại đành phải nói tiếp.

Dẫn chứng về sự ngu xuẩn của không ít người có trách nhiệm – đã và đang gây ra bao thảm họa trầm kha cho dân tộc thì nhiều vô kể. Chỉ xin dẫn ra vài sự việc mới xảy ra gần đây (nhân tiện, tôi cũng nhấn mạnh rằng, ngay chữ đầu tiên của bài này, tôi dùng chữ XIN, sau khi đã cân nhắc chán chê).

Một ông quan có trách nhiệm cho rằng sau khi trẻ đi học về, chơi cũng không tốt nên cần phải… học nữa. Nói như thế thì chẳng khác gì không nói thì hơn. Phân phối giờ học, giờ chơi cho trẻ thế nào cho hợp lý là nguyên tắc tối thượng của hiệu quả giáo dục, trách nhiệm của quan là chỉ ra cái giải pháp đúng cho điều cần của thực tiễn xã hội. Chợt nhớ chuyện “trồng con gì và nuôi cây gì” (tôi cố tình sai): Làm lãnh đạo mà cứ nước đôi, ba phải thì ngay cả kẻ ít chữ nhất cũng làm được.

Bộ NN & PTNT vừa đưa ra pháp lệnh thịt sau khi giết mổ chỉ được bán sau 8 giờ trong điều kiện thường. Thế nào là điều kiện nhiệt độ bình thường? Nắng 40 độ, gió Lào là thường hay 15 độ ngày gió mùa đông bắc ở Hà Nội là thường? Trâu, bò, lợn thường được giết mổ lúc nửa đêm, chẳng lẽ đến 8 giờ sáng là đem đi tiêu hủy? Ai phân định cho được cái khái niệm trước và sau 8 giờ đồng hồ? Hay đây là cách để bật đèn xanh cho những kẻ muốn trung thành rằng cứ tiếp tục hành dân, nhận hối lộ; rằng những người có trách nhiệm luôn tìm ra nhiều cách thức khác nhau để cho sai nha lộng hành, vơ vét; rằng đã có sự bảo đảm từ một chính quyền vì quan, do quan và của quan?

Ông Phó GĐ Sở GTVT Hà Nội kết luận chắc như cua óp ngày rằm rằng “hố tử thần” trên đường Lê Văn Lương là do mưa bão (!). Cách đây hơn 10 năm, tôi có đọc cho toàn thể hội đồng chấm thi đại học môn sử nghe đoạn văn với lời dẫn “để sau này có người làm chứng rằng tôi không bịa”: Đảng ta có rất nhiều sai lầm nhưng vì khéo che giấu nên ít người biết. Nhưng đôi khi có người cũng biết nên mới có câu rằng ‘mất mùa đổ tại thiên tai’… Hàng chục năm trước, một đứa trẻ còn biết tỏng tòng tong đâu là sự thật, sao đến tận bây giờ, một ông quan có thể ăn nói ngu hết biết như thế? Một con đường, một con đập đều phải tính toán được mọi tác động của thời tiết, và thậm chí, nếu không lường được thì phải ghi rõ “Công trình này chỉ chịu được động đất 5 độ Richter…”. Một trận mưa chưa phải là ghê gớm mà đường thành hố đủ để lấp xác hàng trăm con tru [trâu] mà cứ xoen xoét vòng vo thì không ngu xuẩn là gì?

Một trong những đỉnh cao của ngu lâu như con trâu là quan chức ngân hàng, cho rằng vì trình độ dân trí thấp nên không thể cho phá sản các ngân hàng yếu kém (!)? Trời hỡi trời! Vậy là dân trí thấp hay quan trí tệ hại? Bởi nếu không dốt nát và tham lam tại sao lại cho phép và dung dưỡng cho sự yếu kém, mầm tai họa tồn tại? Nếu thấy yếu kém, thua lỗ hàng chục, hàng trăm ngàn tỷ đồng vẫn cứ kiên trì định hướng thì đó là sáng suốt và đỉnh cao, thiên tài sao?...

Cái tham, cái xuẩn trong kinh tế, xã hội do các ngài dốt nát gây ra gây nên những hậu quả tức thời trong đời sống; nhưng cái đui mù (hay giả đui mù sau khi nhìn thấy… tiền) trong quản lý văn hóa thì không thể nào lượng định nổi những tai họa lâu dài. Ngôi Chùa Trăm Gian – một trong những báu vật (báo Dân trí gọi là “Ngôi cổ tự tuyệt bích”) của lịch sử nước nhà đã bị dụ khị hóa bằng hai chữ “làm mới”; để rồi bị mổ xẻ, bị cắt phá, bị đục bỏ tan tành! Không “làm mới” thì chẳng có tiền trùng tu, chấn hưng di tích cổ? Bài học của Ngàn Năm Thăng Long còn đó khi người ta tìm mọi cách để làm mới tất cả mọi thứ có thể thành tiền. Đạo đức văn hóa và lương tâm nghề nghiệp của những cán bộ trong ngành quản lý văn hóa của Hà Nội thật thê thảm! Làm sao họ còn đủ tư cách để nói những điều tốt đẹp về đạo đức, về văn hóa? Xem ra, những đồng tiền mới chảy vào túi các quan luôn cùng chiều với sự đớn đau của cả giống nòi!

Những nỗi đau bất tận của cánh đồng Việt Nam thời nay chỉ có một nguyên nhân mà thôi: Sự dốt nát, tham lam, vô văn hóa của không ít quan chức tự cho mình cái quyền khuynh loát, làm hại cuộc đời của hàng chục triệu con người đã và đang gây ra những hậu quả ngày càng nghiêm trọng hơn. Tại sao không chịu thấy một thực tế rằng, một ông chủ gia đình nghèo không thể làm chủ tịch xã, chủ tịch huyện… vì không thể chăm lo cho cuộc sống ấm no, hạnh phúc của hàng vạn gia đình? Có thời đại nào lại dung dưỡng sự dốt nát để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không?

Nếu còn có chút lương tri, ý thức vì giống nòi, Tổ Quốc, XIN các vị hãy dừng lại, bớt đi sự ngu xuẩn cho dân nhờ, cho dân đỡ đau đớn, xót xa. Cảm ơn vô cùng, lắm lắm…

Huế, 05:30, 28.8.2012

H.V.T.

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Xung đột Trung - Mỹ và "lăng ba vi bộ" kiểu Việt Nam - Hữu Nguyên

Hôm nay đọc ViệtNamNet thấy nói Trung Quốc đang đẩy nhanh việc phát triển một thế hệ tên lửa đạn đạo xuyên lục địa mới, với nhiều khả năng vượt trội hơn cùng các tên lửa phóng đi từ tàu ngầm. Giới phân tích quân sự cho biết, động thái trên đã giúp Trung Quốc làm tăng khả năng hiện có của họ để sử dụng các đầu đạn hạt nhân trong cuộc đối đầu với Mỹ và để áp đảo các hệ thống phòng thủ tên lửa.
Tờ Thời báo Hoàn cầu tuần trước đưa tin, Trung Quốc đang phát triển khả năng trang bị nhiều đầu đạn trên các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa (ICBM). Theo Larry M. Wortzel thuộc Ủy ban Đánh giá kinh tế và an ninh Mỹ - Trung, một tổ chức do Quốc hội Mỹ thành lập, Trung Quốc đang phát triển khả năng đặt 10 đầu đạn hạt nhân lên một ICBM, mặc dù một số đầu đạn giả có thể được thay thế đầu đạn thật. Các đầu đạn giả được thiết kế để đánh lừa hệ thống phòng thủ tên lửa. “Ý nghĩa lớn hơn của việc này là khi họ bắt đầu một lực lượng tên lửa với nhiều đầu đạn có nghĩa là mọi thứ chúng ta đánh giá về quy mô kho vũ khí hạt nhân của họ đã thành sai lầm”, ông Wortzel, một cựu sĩ quan tình báo quân đội Mỹ nói.
Quy mô chương trình tên lửa chiến lược của Trung Quốc vẫn được giữ bí mật. Lầu Năm Góc ước tính, Trung Quốc gần đây có từ 55- 65 ICBM. Nước này còn đang chuẩn bị hai tàu ngầm để triển khai các tên lửa, mỗi tàu có khoảng 12 tên lửa, ông Wortzel cho biết.
Trung Quốc ngày nay trên đà phát triển quá nóng của mình đôi khi không kiềm lại được bản chất “Đại Hán bá quyền”. Tư tưởng này vốn ăn sâu trong từng mạch máu, thớ thịt, nơ-tron thần kinh… của những nhà lãnh đạo ở Trung Nam Hải, cũng là truyền thống của rất nhiều nhà lãnh đạo, các triều đại từ xa xưa của quốc gia này. Do vậy, họ đã từng không ngần ngại đề nghị với Hoa Kỳ “chia đôi Thái Bình Dương”, để phải nhận câu trả lời lịch sự: "No, thanks!".
Còn nhớ, khi thăm viếng Nhật Bản cuối tháng 8/2010, Đô đốc Robert Willard, Tư lệnh Lực lượng Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương lúc đó (ngày 9/3/2012, Mỹ chính thức bổ nhiệm đô đốc Samuel Locklear, chỉ huy các hoạt động của NATO nhằm giúp quân nổi dậy Libya lật đổ MuammarGaddafi,trở thành người đứng đầu bộ tư lệnh Thái Bình Dương thay cho ông Robert Willard) nói với các nhà báo rằng Trung quốc gần như đã sẵn sàng cho tên lửa đạn đạo hoạt động. Đây sẽ là thứ vũ khí đầu tiên trên thế giới. Vũ khí đánh tàu trên biển như cruise missile (hỏa tiễn bay ngang) xưa nay không hiếm nhưng tốc độ chỉ bằng 1/10 tốc độ của hỏa tiễn đạn đạo, và tầm hoạt động tối đa là 600 dặm, có sức công phá ít hơn và do đó ít nguy hiểm. Trái lại, theo một tài liệu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ tên lửa đạn đạo của Trung quốc có tầm 1000 dặm.
Trong trường hợp nếu Hải quân Hoa Kỳ không còn đủ sức bảo vệ Tây Thái Bình Dương các nước trong vùng sẽ phải tìm cách tự bảo vệ mình. Hậu quả là chính sách nuôi mộng làm bá chủ trong vùng của Trung Quốc khi triển khai trên thực tế sẽ tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang trong khu vực. Đồng thời người ta sẽ phải đặt câu hỏi: Trung Quốc sẽ hành xử như thế nào khi trở thành bá chủ trước hết là trong trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương.
Lịch sử bành trướng của Nhật trong mấy thập niên sau của nửa trước thế kỷ 20 cho thấy châu Á đã bị đe dọa như thế nào khi xuất hiện một nước có nhiều tham vọng trở thành bá chủ trong vùng. Sau khi Hải quân Nhật kiểm soát toàn bộ vùng Tây Thái Bình Dương, Nhật đã xâm lăng, uy hiếp và đàn áp các nước chung quanh. Với khả năng chuyên chở binh sĩ, vũ khí bằng đường biển Nhật đã đe dọa an ninh từ Ấn Độ đến Hawai.
Sự đe dọa của Trung Quốc tới ảnh hưởng của Hoa Kỳ và hòa bình trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương hiện nay thực ra có sự tham gia “dọn đường” của chính nước Mỹ.
Bốn mươi năm sau chuyến thăm đặc biệt của TT Nixon tới Trung Quốc người ta nhận thấy đó chính là sự khởi đầu hết sức ngoạn mục một tiến trình dẫn tới việc chấm dứt sự cô lập của Trung Quốc và dọn đường cho quốc gia này tái sinh như một cường quốc. Trong 40 năm qua, Trung Quốc đã hưởng lợi nhiều hơn so với Hoa Kỳ từ việc nối lại quan hệ hữu nghị chiến lược Trung – Mỹ.
Có thể nói, Trung Quốc đã chiến thắng trọn vẹn trong cuộc chơi với Hoa Kỳ trong 40 năm qua. Nhưng thật may mắn là nước Mỹ chưa thua. Hiện tại, cũng có thể coi đây là cuộc chơi win-win (cả hai cùng thắng). Tuy nhiên, hiệu quả từ chiến thắng này của Hoa Kỳ so ra thấp hơn nhiều với Trung Quốc, khi mà sức mạnh ảnh hưởng trên thế giới ngày nay cho phép Trung Quốc đòi phân chia quyền lợi với Hoa Kỳ. Mà cụ thể là đòi chia đôi Thái Bình Dương, tất nhiên trong đó có yêu sách độc chiếm Biển Đông.
Điều đó cho thấy cấu trúc của các mối quan hệ Trung - Mỹ đã thay đổi vượt ra ngoài sự thỏa thuận ban đầu. Về an ninh, họ đã trở thành các bán-đối-thủ, thay vì là các bán-đồng-minh, bên này coi bên kia như một mối đe dọa tiềm ẩn và trù tính các chiến lược quốc phòng tương xứng. Các mối quan hệ kinh tế của họ phát triển phụ thuộc lẫn nhau và hình thành một nền tảng vững chắc nhất để tiếp tục hợp tác. Nhưng ngay cả như thế, căng thẳng vẫn xuất hiện, đặc biệt là dưới dạng các thâm hụt lớn về thương mại song phương.
Xung đột ý thức hệ - giữa nền dân chủ tự do Mỹ và nhà nước độc đảng của Trung Quốc – ngày càng trở nên gay gắt hơn. Từ lâu các chuyên gia Hoa Kỳ ủng hộ sự ràng buộc với Trung Quốc đưa ra lập luận dựa trên giả định rằng sự hiện đại hóa kinh tế và hội nhập của Trung Quốc với phương Tây sẽ thúc đẩy sự thay đổi chính trị và làm cho nhà nước độc đảng trở nên dân chủ hơn. Tuy nhiên, giả thuyết "cách mạng tự do" này đáng tiếc đã không mang lại kết quả. Trên thực tế Đảng Cộng sản Trung Quốc lại ngày càng chống lại dân chủ hóa và ngày càng căm ghét các giá trị tự do.
Kết quả là, trong số 3 trục của quan hệ Trung - Mỹ gồm an ninh, kinh tế và hệ tư tưởng thì chỉ một - các lợi ích kinh tế chung - là vẫn tồn tại. Trong lĩnh vực an ninh và ý thức hệ, các mối quan hệ Trung - Mỹ phát triển ngày càng cạnh tranh và đối lập. Nếu thế thì nhiều khả năng nhất là sự cạnh tranh chiến lược sẽ trở thành một đặc điểm chính của các mối quan hệ Trung - Mỹ trong tương lai gần - chừng nào nhà nước độc đảng của Trung Quốc tiếp tục nắm quyền.
Do niềm tin chiến lược thực sự là không thể có giữa một nước Mỹ với các giá trị dân chủ tự do và một Trung Quốc do nhà nước độc đảng lãnh đạo, sự cạnh tranh an ninh giữa Mỹ và Trung Quốc sẽ chỉ ngày càng dữ dội hơn mà thôi. Cho nên, những rủi ro mà ngay cả đó là lợi ích kinh tế chung giữa Mỹ và Trung Quốc cũng có thể xói mòn như là một hậu quả của xung đột giữa các hệ thống chính trị của họ là không thể tránh khỏi.
Trở lại vấn đề trên Biển Đông có liên quan tới chủ quyền và lợi ích quốc gia của Việt Nam , căng thẳng trên vùng biển này ngày càng đang gia tăng theo đà suy yếu của Hải quân Mỹ trong khu vực. Bất chấp các tuyên bố về lợi ích quốc gia, đảm bảo an ninh hàng hải, tự do đi lại trên biển của Hoa Kỳ, gần đây báo chí Trung Quốc đã không ngần ngại gì mà hét to: “Hoa Kỳ hãy câm mồm lại”, về các vấn đề có liên quan tới Biển Đông đụng chạm tới các tuyên bố chủ quyền hoang tưởng của Trung Quốc. Các động thái ngoại giao căng thẳng mà Trung Quốc dành cho Hoa Kỳ và các đồng minh trong thời gian gần đây cũng cho thấy thái độ “nắn gân” để thăm dò phản ứng, sức mạnh của phe đồng minh trong khu vực Thái Bình Dương.
Tuy vậy, sự kiện Thượng viện Hoa Kỳ thông qua nghị quyết về Biển Đông mới đây cho thấy quyết tâm của Mỹ trong việc thực hiện cam kết đảm bảo sự có mặt lâu dài của Hải quân Mỹ tại Tây Thái Bình Đương.
Nghị quyết này do thượng nghị sĩ John Kerry và một số thượng nghị sĩ Mỹ (Richard Lugar, John McCain, Jim Webb, James Inhofe và Joe Lieberman) giới thiệu lên Thượng viện. Trước đó, khi đưa ra nghị quyết, thượng nghị sĩ Kerry nói rằng việc ASEAN không đạt được sự đồng thuận để đưa ra tuyên bố chung liên quan tới bộ quy tắc ứng xử tại hội nghị thượng đỉnh Campuchia đã làm tăng thêm căng thẳng giữa Trung Quốc và các láng giềng xung quanh.
"Các tranh chấp này là có thật và trở nên nghiêm trọng hơn. Tôi nghĩ điều ít nhất Thượng viện có thể làm là thể hiện thái độ rõ ràng dứt khoát trong việc ủng hộ các nỗ lực của ASEAN để phát triển một bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông", ông Kerry nhấn mạnh. "Không còn nghi ngờ gì về việc Mỹ đã cam kết đảm bảo sự hiện diện lâu dài và thúc đẩy các mối quan hệ đối tác trong khu vực. Chúng tôi có một lợi ích rõ ràng trong an toàn và hành xử hợp pháp của tất cả mọi người trong hoạt động hàng hải chung của châu Á. Chúng tôi có lợi ích to lớn trong giải pháp hòa bình cho tất cả các vấn đề ở Biển Đông, phù hợp với luật pháp quốc tế và thông qua tiến trình ngoại giao đa phương", ông Kerry khẳng định. "Chúng tôi có những mối quan tâm lớn về tự do hàng hải và tự do thương mại. Đó là những nguyên tắc mà tất cả các nước trong khu vực nên ủng hộ”.
Có vẻ như sau 40 năm “dọn đường” cho Trung Quốc trở thành cường quốc bán-đối-thủ, giúp họ thu hoạch nhiều thành quả hơn chính bản thân nước Mỹ, Washington đã bắt đầu nhận ra nguyên nhân cũng như nguy cơ về một khả năng mất kiểm soát Thái Bình Dương của Hải quân Mỹ và sau đó có thể sẽ là những khu vực rộng lớn hơn nên đã và đang tìm cách để sửa chữa sai lầm từ sự thả lỏng với quan niệm kinh tế thị trường sẽ kiến tạo tự do sau cú dọn đường lịch sử này.
Tác giả Lê Hồng Hiệp (nghiên cứu sinh tiến sĩ tại Học viện Quốc phòng Australia), trong bài phân tích mới đây trên ViệtNamNet nhận định: “Mỹ dường như đang muốn sử dụng tranh chấp Biển Đông như một công cụ để ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung Quốc. Bối cảnh này một mặt có thể khiến Trung Quốc buộc phải kiềm chế và giúp cho tranh chấp Biển Đông được giải quyết một cách hòa bình, mặt khác cũng có thể khiến cuộc tranh chấp thêm phần phức tạp nếu Trung Quốc tiếp tục cứng rắn và đối đầu chiến lược Trung - Mỹ trở nên sâu sắc hơn. Tình hình đó mang lại cho Việt Nam những thuận lợi lẫn thách thức mới trong việc xử lý tranh chấp Biển Đông và giải quyết quan hệ với các nước lớn, đòi hỏi ở Việt Nam hơn lúc nào hết một sự bản lĩnh, khôn ngoan và khéo léo trong việc hoạch định và thực thi các chính sách chiến lược của mình”.
Thế nhưng ông Lê Hồng Hiệp không cho biết cụ thể hơn về “sự khôn ngoan và khéo léo” của Việt Nam trong hoạch định và thực thi chính sách chiến lược của mình là như thế nào.
Tuy nhiên, từ lâu một vài chuyên gia cũng đã đưa ra những gợi ý về đề tài này. Theo đó, sự khéo léo của Việt Nam trong bối cảnh xung đột Trung – Mỹ chắc chắc xảy ra là phải biết tự giữ mình. Trước hết là biết tự giữ lấy những gì mà Việt Nam đang có. Né tránh đến mức “siêu đẳng" (như việc sử dụng “lăng ba vi bộ” trong truyện chưởng Kim Dung) việc chủ động xảy ra đụng chạm, nhất là đụng chạm quân sự trên biển với Trung Quốc để nước này tạo cớ để “dạy cho Việt Nam một bài học” và chiếm nốt những gì Việt Nam đang có trên Biển Đông.
Thế nhưng, lạm dụng "lăng ba vi bộ" với cả chính nhân dân mình khi họ bày tỏ quyết tâm chống giặc ngoại xâm và phản đối, lên án bọn "cõng rắn cắn gà nhà" thì là lại điều thất sách, thất nhân tâm.
Cái khó của việc vừa sử dụng “lăng ba vi bộ” vừa phải đảm bảo việc chấp pháp trên vùng biển chủ quyền thật khôn khéo, mềm dẽo mà cương quyết không để đối phương lấn chiếm từng bước bằng thủ đoạn “cây gậy nhỏ”. Chiến thuật là tương kế tựu kế, lấy gậy ông đập lưng ông. Nếu đối phương dùng thủ đoạn “cây gậy nhỏ”, thì Việt Nam cũng nên dùng chính thủ đoạn này, nhưng với “cây gậy nhỏ bọc nhung” và có “đeo lục lạc”. Đánh thật êm, nhưng lại phát ra tiếng cồng chiêng, lục lạc… báo động với cộng đồng thế giới về tính chính đáng của một quốc gia nhỏ bé buộc phải bảo vệ chủ quyền trên vùng biển truyển thống, lâu đời của cha ông trước sự qua đáng của tên hàng xóm khổng lồ và tham lam.
Đồng thời với chiến thuật “cây gậy nhỏ bọc nhung, đeo lục lạc”, Việt Nam cần chuẩn bị thật nghiêm túc, bài bản, khoa học cho cuộc chiến về pháp lý sẽ diễn ra trong tương lai. Nhiều chuyên gia quốc tế nhận xét, yếu tố pháp lý và lịch sử là thế mạnh của Việt Nam trong cuộc tranh chấp trên Biển Đông với Trung Quốc. Nếu vấn đề này được chuẩn bị chu đáo và được đưa ra trước cộng đồng quốc tế đúng lúc thì thế mạnh sẽ thuộc về Việt Nam .
Sử dụng chiến thuật “cây gậy nhỏ”, Việt Nam cũng cần phải tạo điều kiện và đảm bảo an toàn về tính mạng, tài sản cho lực lượng ngư dân vốn rất gan dạ, dũng cảm, giàu lòng yêu nước và quen thuộc ngư trường Hoàng sa, Trường Sa như lòng bàn tay có cơ hội được bám biển liên tục và lâu dài.
Tuy nhiên, chiến lược “trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi” vẫn là phải tăng cường sức mạnh nội lực bằng các chính sách cải cách phù hợp với quy luật phát triển và xu thế của thời đại. Giải quyết được mâu thuẫn nội tại hiện nay trong chính nội bộ dân tộc để có thể huy động được sức mạnh đoàn kết của toàn dân tộc trong cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền kể cả bằng quân sự khi cần thiết và đặc biệt là trên các bàn cờ chính trị - ngoại giao.
Về chuyện này, tác giả Bùi CôngTự gần đây đã đưa ra nhận định chính xác khi bình luận về bài phát biểu của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhân dịp Quốc Khánh 2/9/2012:
“Làm thế nào để đoàn kết – hòa hợp – thống nhất được thì ý kiến của ông chủ tịch lại chưa đủ thuyết phục… Vấn đề mắc mớ là xã hội chúng ta đang sống đang tồn tại nhiều mâu thuẫn gay gắt, cả những mâu thuẫn đối kháng… Tóm lại nếu tình trạng đất nước cứ như hiện nay, không thể giải quyết được những mâu thuẫn xã hội âm ỉ, gay gắt thì chắc chắn không thể có đoàn kết – hòa hợp – thống nhất. Vậy thì đất nước sẽ đi đến đâu?”.
Làm sao có thể huy động được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để chiến đấu chống giặc ngoại xâm khi chính những người yêu nước lại bị cản trở, bắt bớ và hành hung chỉ vì họ công khai bày tỏ thái độ và quan điểm của mình trước những hành động xâm lược ngày càng ngang ngược của Trung Quốc?
Nếu không thể giải quyết được các mâu thuẫn xã hội, không thể đoàn kết – hòa hợp – thống nhất được lòng người, thì vận nước rồi sẽ ra sao?

Gậy ông đập lưng ông.

Song Chi.

Sức mạnh và sự tồn tại của một nhà nước độc tài phụ thuộc rất nhiều vào khả năng kiểm soát thông tin trong xã hội. Một mặt, hạn chế, bưng bít tất cả những thông tin trung thực nhưng bất lợi, mặt khác, lèo lái, hướng dẫn mạng lưới truyền thông lẫn hệ thống giáo dục, tuyên truyền…trong nước theo hướng có lợi cho chế độ, kể cả bóp méo, làm sai lệch sự thật, tạo ra những luồng thông tin dối trá và dối trá.

Nhà nước cộng sản Trung Quốc hay VN cũng không là ngoại lệ.

Với nhà cầm quyền VN, khả năng kiểm soát thông tin đó đã giúp họ tồn tại cho đến nay là hơn 6 thập kỷ, qua những giai đoạn khó khăn nhất. Ngay cả trong những ngày miền Bắc vật vã trong đói nghèo, chiến tranh và những sai lầm liên tiếp của công cuộc cải cách ruộng đất hay chiến dịch đánh phá phong trào Nhân văn giai phẩm; những ngày cuộc chiến tranh với Mỹ và miền Nam đang căng thẳng nhất; hoặc khi cả nước sắp đứng trước bờ vực của sự chết đói sau hơn 10 năm tiến hành nền kinh tế xã hội chủ nghĩa được áp dụng theo miền Bắc…

Khi còn kiểm soát được thông tin, kiểm soát được từ tư tưởng, tình cảm, cho đến hành động nhỏ nhất của người dân, bên cạnh việc nắm giữ lực lượng an ninh, công an, quân đội…thì chế độ cộng sản vẫn còn an toàn.

Sự an toàn tuyệt đối đó đã bị phá vỡ kể từ khi có internet ra đời. Từng ngày từng ngày bức tường sắt ngăn chặn thông tin của nhà cầm quyền bị xuyên thủng, rò rỉ cho những luồng thông tin từ bên ngoài tràn vào. Sự độc quyền thông tin không còn, đồng thời tất cả sự hạn chế, méo mó, sai lệch của cái hệ thống thông tin đặt dưới sự kiểm duyệt, lèo lái của nhà nước ấy dần dần bị phơi bày trước mắt người dân.

Nhu cầu khao khát thông tin, khao khát sự thật dẫn dắt người dân đến với những nguồn thông tin bên ngoài. Và khi nguồn thông tin này bao gồm báo chí quốc tế, báo chí của người Việt ở nước ngoài, các diễn đàn độc lập, mạng lưới trang blog cá nhân mọc lên như nấm sau mưa… càng lúc càng mạnh, phong phú, cập nhật nhanh, đa chiều hơn hẳn, thì người dân cũng dần dần không buồn đọc/nghe/xem nguồn thông tin chính thức trong nước hoặc đọc/nghe/xem với con mắt biết hoài nghi, đối chiếu, so sánh trong-ngoài…

Nhà cầm quyền, do vậy, không còn thi hành được chính sách ngu dân tuyệt đối như trước nữa.

Nhưng họ vẫn tìm mọi cách để không công khai minh bạch mọi thông tin mà người dân cần biết và có quyền được biết từ phía nhà cầm quyền.

Từ nhân thân, tính nết, năng lực thật sự, tài sản…của các quan chức lớn nhỏ, đặc biệt là các nhân vật lãnh đạo cho đến những chính sách, phương hướng, đường lối điều hành quản lý đất nước trong mọi lĩnh vực, đối nội và đối ngoại.

Từ thực chất mối quan hệ Việt-Trung trong bao nhiêu năm, nội dung của những bản hiệp ước, hiệp định về lãnh thổ lãnh hãi đã ký kết giữa hai bên cho đến những gì đang thực sự diễn ra trên biển Đông hiện nay và những kịch bản nào sẽ xảy ra cho đất nước trong tương lai…

Từ những sai lầm trong chính sách về kinh tế dẫn đến tình trạng suy yếu, bất ổn kéo dài của nền kinh tế vĩ mô, thực chất của vấn đề nợ công hay tình trạng làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp nhà nước đang ảnh hưởng như thế nào đến nền kinh tế và làm thế nào để thay đổi….cho đến sự thật phía sau những vụ án lớn về kinh tế như vụ PMU18, vụ Vinashine, Vinalines…

Hay mới đây là vụ ông Nguyễn Đức Kiên, ông Lý Xuân Hải bị bắt. Tất nhiên, một vụ án khi đang trong quá trình điều tra có những điều không thể công bố nhưng người dân cũng thừa hiểu rằng, cho dù sau này khi vụ án đã được đưa ra xử lý, nhân dân cũng không bao giờ được biết thực sự các ông này bị tội gì, liên quan đến ai, tầm vóc của sự việc đến đâu v.v…và v.v…Báo chí được phép đăng cái gì, bao giờ đăng, đăng đến đâu…đều đã được chỉ đạo, theo dõi kỹ càng.

Hệ quả từ sự không công khai, minh bạch thông tin này đã quá rõ. Thứ nhất, kìm hãm chức năng thông tin, khám phá, bảo vệ sự thật của báo chí, báo chí quốc doanh bị biến thành công cụ, cái loa của nhà cầm quyền trong lúc báo chí bên ngoài ngày càng thu hút mạnh mẽ người đọc như đã nói ở trên. Thứ hai, tạo những khoảng trống thông tin trong xã hội cho những tin đồn, tin hành lang, những giả thuyết, phỏng đoán gây nhiễu…lan tràn, khiến người dân càng thêm mất lòng tin vào nhà nước, từ đó cứ việc mình mình làm, tự bảo vệ mình, suy xét mọi việc theo đám đông.

Như trong vụ bầu Kiên bị bắt vừa qua. Sự hoang mang, sợ hãi do không nắm được thông tin rõ ràng, không hiểu chuyện gì đang/sắp/sẽ xảy ra cộng với tâm lý bầy đàn, hiệu ứng đám đông nên các nhà đầu tư chứng khoán đua nhau báo tháo các cổ phiếu, thị trường chứng khoán bị một phen tụt dốc thê thảm, bên cạnh đó, người dân ùn ùn đi rút tiền tại các ngân hàng được cho là có liên hệ với bầu Kiên khiến nhà nước phải bơm hàng ngàn tỷ đồng hỗ trợ thanh khoản. Giá vàng cũng theo đó tăng vọt lên...

Nhà cầm quyền từ chỗ phải nhường bước, trở thành lép vế trên mặt trận truyền thông tiến tới không kiểm soát và khống chế được thông tin bên ngoài nữa.

Càng ngày, việc không công khai minh bạch hóa thông tin càng đưa đến tình trạng bất lợi cho chính nhà cầm quyền.

Về mặt kinh tế, VN từ lâu đã trở thành một mảnh đất mầu mỡ cho nạn tham nhũng tràn lan, sự lãng phí, tình trạng ăn cướp, vơ vét tài nguyên thiên nhiên, tài sản của đất nước và nhân dân một cách trắng trợn bằng mọi thủ đoạn của những kẻ có chức có quyền cũng như sự tung hoành của mọi loại tội phạm kinh tế trong và ngoài nước…Về mặt xã hội, VN cũng là mảnh đất màu mỡ cho mọi loại tội phạm hình sự, do được điều hành bằng luật của đảng và luật rừng, tình trạng đạo đức xuống cấp, những bất công phi lý cứ ngang nhiên tồn tại khắp nơi…

Còn về mặt thông tin, ở VN đang tồn tại một nghịch lý rõ rệt: những loại thông tin vô bổ, thậm chí rác rưởi như việc đi sâu khai thác tỉ mỉ các vụ án hình sự cướp giết hiếp, thế giới showbiz và những trò lố lăng v.v…thì tràn ngập, trong khi đó, những thông tin cần thiết cho người dân trong mọi lĩnh vực đời sống quốc gia và đời sống cá nhân, được công khai từ phía nhà nước thì rất ít. Những thông tin đúng thì rất hiếm mà các loại tin đồn, tin chắp nối vỉa hè, các loại giả thuyết, phỏng đoán thì nhiều.

Gần đây các loại thông tin như vậy phần lớn được tung ra từ một trang mạng có tên là Quan Làm Báo, chưa biết rõ mục đích thật sự là gì, do ai/nhóm nào điều hành, nhưng rõ ràng kiểu đưa tin nửa úp nửa mở, pha trộn giữa tin đồn, và những thông tin có được bằng những con đường bí ẩn nào đó, với cách viết giật gân, thấp tầm, bất cần kiểm chứng, đã “lấp chỗ trống” phần nào cho người dân đang tò mò và thiếu thốn những loại thông tin chính thức từ phía sau hậu trường chính trị VN.

Nếu theo dõi các bài viết trên trang Quan Làm Báo, người ta có thể suy đoán, hoặc trang mạng này do tay chân của phe nhóm này lập ra để triệt hạ uy tín của phe kia, mà ở đây sự ủng hộ dành cho phe nào thì vẫn không dám khẳng định chắc chắn, nhưng phe bị chĩa mũi dùi thì rõ ràng là phe của ông Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Nếu quả đúng như vậy thì việc khui những bí mật động trời của nhau ra cũng chỉ nhằm mục đích chính là đánh nhau, chứ không phải vỉ thật sự muốn “mở mắt” cho người dân. Mặt khác, dựa vào sức mạnh của trang web không bị đánh sập bởi an ninh mạng VN, cộng với cách hành văn, lỗi chính tả….cho thấy có vẻ như không phải do một nhóm người Việt chủ trương. Và nếu vậy thì do ai, từ đâu?

Có người đã từng đặt ra vấn đề, rằng trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao…TQ là tay tổ chuyên nghề đánh phá VN từ xưa đến nay, bằng mọi thủ đoạn tinh vi nhất để kìm hãm không cho VN phát triển. Và thực tế đã cho thấy TQ làm điểu đó không có gì khó, với một nhà cầm quyền ngu muội, hèn nhát, có tầm nhìn ngắn, lại tham lam, cố bám giữ quyền lực đến cùng và luôn luôn đặt quyền lợi của phe nhóm, của chế độ lên trên quyền lợi của đất nước, dân tộc như nhà nước cộng sản VN. Do đó, trong lĩnh vực thông tin, nếu Bắc Kinh muốn phá, trình độ của họ, chẳng có gì mà họ không làm được. Như việc tạo ra một trang mạng kiểu như Quan Làm Báo, tung ra những thông tin hư hư thực thực, chẳng hạn.

Và trong cả hai trường hợp, về lâu về dài, thực sự chẳng có lợi gì cho VN và cho người dân VN.

Một ví dụ nhỏ, về góc độ kinh tế xã hội, những thông tin do trang này tung ra như hàng loạt tin đồn nhân vật này nhân vật kia trong giới kinh doanh, tài chính ngân hàng bị bắt hoặc bị quản thúc, khiến các nhân vật này phải lên tiếng cải chính hoặc xuất hiện công khai. Và người dân, những ai đọc được những thông tin loại này thì hoang mang thêm, rồi người này truyền tai người kia, rủ nhau đi rút tiền ở ngân hàng này ngân hàng khác, khiến hệ thống ngân hàng VN vốn đang bị khủng hoảng do nợ xấu đã đến mức báo động, cộng thêm tình trạng rối loạn do các nhóm lợi ích tìm mọi cách thao túng, lũng đoạn …nay càng thêm rối. Còn dưới góc độ thông tin, mặc dù nó có thể đáp ứng cho người dân phần nào những bí mật xấu xa mà nhà cầm quyền muốn che dấu, nhưng nó cũng làm nhiễu loạn thêm.

Cuối cùng thì nhà cầm quyền VN đã rơi vào thế “gậy ông đập lưng ông”. Vì muốn bưng bít thông tin, vì không chấp nhận sự công khai minh bạch như trong một xã hội tự do dân chủ nên họ mới bị rơi vào thế lúng túng, đối phó bị động tứ bề như hiện nay.

Để tang nước - Nguyễn Thị Từ Huy

Một lần nữa trở lại với hai chữ “đất nước”, và hai chữ này sẽ còn được nhiều người Việt Nam nói đến, nó sẽ còn là nỗi ám ảnh của người Việt đương đại, cho đến khi, hoặc họ sẽ để mất cái nội dung được chuyên chở bởi hai chữ đó, hoặc họ chấp nhận mỗi người mất đi một điều gì đó của chính họ để bảo tồn được nó (điều phải mất đi có thể là: tài sản, quyền lực, nỗi sợ hãi, sự hèn hạ, sự hèn nhát, sự mù quáng, lòng tham, sự thiếu trách nhiệm, sự vô cảm,…)

Trong từ ghép “đất nước” , yếu tố “nước” đứng sau “đất”, nhưng không phải nó kém quan trọng hơn “đất”. Bởi vì “đất” tách riêng ra thì không còn hàm nghĩa “đất nước”. Nhưng “nước” đứng riêng vẫn mang đầy đủ ý nghĩa là lãnh thổ quốc gia. Và trong các văn bản hành chính thì chỉ có từ “nước” được sử dụng: nước Việt Nam, nước Pháp, nước Mỹ,…

Vì thế, nước đối với người Việt hẳn phải có một giá trị hết sức đặc biệt mà việc diễn giải nó đòi hỏi công phu của các nhà văn hóa học, các nhà dân tộc học…

Quan sát phản ứng của đa số dân chúng Việt Nam hiện nay, ta có cảm giác rằng dường như nước không còn giữ được cái giá trị tinh thần đặc biệt mà nó từng có đối với người Việt trong lịch sử. Trong khi 23 ngàn con tàu của Trung Quốc giày xéo gương mặt bà mẹ Biển Đông (người Việt vẫn ví lòng mẹ bao la như biển, nhưng biển còn là ẩn dụ kép về cả người mẹ và người cha, vì biển là nơi cư trú của Lạc Long Quân và 50 người con) thì hầu như đa số người Việt biểu lộ ra ngoài một sự bình thản khó hiểu. Một số vô cùng ít ỏi trên toàn bộ tổng số gần 90 triệu người ôn hòa bày tỏ giông tố trong lòng họ lại gặp phải sự đàn áp và sự bôi nhọ không thể giải thích nổi từ phía chính quyền, và sự thờ ơ không thể nào hiểu nổi từ phía đồng bào của họ.

Hôm nay, tôi có một trải nghiệm trực tiếp với nước, và lại là nước biển, ở Hội An, một khu vực cách Hoàng Sa không xa. Tôi nằm thả lỏng, bồng bềnh trên mặt biển, không cử động, xung quanh là nước, mắt hướng lên cao nhìn thẳng vào bầu trời, xanh thẳm, sâu hút. Cứ như vậy rất lâu. Và một dự cảm đau đớn lan khắp cơ thể: rồi một ngày bầu trời này, mặt biển này không còn là của tôi nữa, không còn là của chúng tôi nữa. Nước đập vào hai bên tai, nhẹ nhàng như an ủi. Dẫu thế dường như không thể an ủi, mà còn tăng bội phần dự cảm mất mát, bởi đó là nước. Có cái gì nghịch lý trong việc làn nước này đang muốn an ủi tôi. Nước biển. Nước. Tang tóc ngấm vào từng tế bào da mang theo vị mặn của muối. Tang tóc được dự báo bởi những hoạt cảnh bắt bớ nồi da xáo thịt, những người lương thiện, những người yêu nước bị kết tội hàng ngày. Tang tóc được dự báo bởi những hỗn loạn khắp mọi lĩnh vực: kinh tế, giáo dục, văn hóa, chính trị,... Trên khoảng trời mà mắt tôi bao quát được tôi nhìn thấy những cảnh đang náo hoạt cuộc sống của chúng tôi hiện nay. Thanh trừng nội bộ hay kịch bản của ngoại bang? Không thể nào biết được một cách chính xác. L’ignorance. Chúng tôi bị đẩy vào tình cảnh như thế: không biết những gì đang diễn ra trước mắt mình, cả khi mắt mở to hết cỡ, ngay cả khi nhìn thấy sự việc. Nhìn thấy mà vẫn không biết. Đó là một thứ tang tóc khác, là một mất mát khác, là một cái chết khác.

Tôi trở về với thực tại, ngạc nhiên thấy mình vẫn đang ở trên mặt nước và ở dưới bầu trời.

Mặt trời quàng qua trán tôi một giải khăn tang ánh sáng. Một nửa vành khăn phủ trán tôi, một nửa tan chảy trong nước biển.

Tôi mong đó chỉ là một giải khăn tang tưởng tượng của một kẻ ủy mị do dính dáng quá nhiều tới văn chương.

N.T.T.H

Hội An, 24/8/2012

Tác giả gửi trực tiếp cho BVN

Bùi Tín: Lỗ hổng đã 67 năm

Bùi Tín

VOA – 28.08.2012

Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2 tháng 9 năm 1945

Cuộc Cách mạng tháng Tám mùa Thu 1945 đã được tròn 67 năm. Trên dưới một đời người. Bao nhiêu thơ ca ca ngợi cuộc chính biến, cách mạng, đổi đời, cướp chính quyền, tang bồng dâu biển sôi nổi ấy. Bao nhiêu bài xã luận, bình luận, chính luận về sự kiện hiếm có ấy trong cuộc sống của dân tộc.

Tưởng như mọi sự cần nói đã được nói đến hết cả rồi.

Ấy vậy mà năm nay, nhân dịp kỷ niệm lần thứ 67 cuộc cướp chính quyền tháng 8-1945, tôi vẫn thấy rất cần nêu lên một ý kiến cực kỳ hệ trọng với bà con ta trong cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, đặc biệt là với các bạn trẻ hiện chiếm số đông trong gần 90 triệu người Việt.

Xin được trân trọng hỏi các bạn là trong 67 năm nay, cho đến ngày hôm nay, đất nước ta, nhân dân ta trong đời sống thực tế đang thiếu cái gì nhất?

Nghĩa là cái thiếu nhất trong cuộc sống hằng ngày, không kể đến những mỹ từ, những lạm từ, những hoang từ nhằm tuyên truyền, tưởng tượng ra những điều không hề có thật trên giải đất hẹp hình chữ S này.

Trước tháng Tám 1945, dân ta chưa có nền độc lập, mang thân phận dân thuộc địa của nước Pháp, sau đó dân ta đã có nền độc lập cao quý. Đến nay tuy nền độc lập vẫn còn bị đe dọa, nhưng nền độc lập vẫn vững bền trong ý chí kiên cường của toàn dân.

Trước kia dân ta cực kỳ nghèo khổ, thiếu ăn, thiếu học; trận đói năm Ất Dậu 1945 dưới thời bị quân phát xít Nhật chiếm đóng đã gây nên cái chết thê thảm của 2 triệu người. Nay ta đã là nước xuất khẩu gạo hàng đầu ở châu Á.

Về thiếu học, dân ta đã xóa nạn mù chữ, xây dựng hệ thống học đường từ mẫu giáo, tiểu học, trung học đến đại học và sau đại học, tuy chất lượng giảng dạy còn xa mới đạt mức trung bình khá, chưa nói gì đến tiên tiến, nhưng dù sao thiếu học, dốt nát không còn là vấn đề trầm kha của cuộc sống dân tộc.

Một số nhà nghiên cứu chính trị và lý luận trong nước lập luận rằng 67 năm nay, dân ta đã có tự do, rằng trong bản Tuyên ngôn Độc lập đã dẫn ra những câu bất hủ về tự do của Cách mạng năm 1776 ở Hoa Kỳ và Cách mạng 1791 của nước Pháp, rằng câu châm ngôn «Không có gì quý hơn độc lập tự do» đã trở thành phương châm chính trị quý giá nhất được thực hiện rõ ràng trong 67 năm qua, và hiện nay có hàng triệu người, hàng chục triệu người Việt Nam vẫn tin là đó là những sự thật hiển nhiên khỏi phải bàn cãi.

Chỉ cần mỗi người Việt Nam ta có công tâm, có tư duy lành mạnh, chịu khó suy nghĩ bằng tư duy độc lập của cá nhân mình, không bị chi phối bởi tư duy giáo điều, theo đuôi người khác, quan sát chặt chẽ cuộc sống thực tế xung quanh, là có thể nhận ra sự thật đúng như nó có.

Sự thật cứng đầu, bướng bỉnh, hiển nhiên là cho đến nay tự do của người công dân ở Việt Nam vẫn còn là quả cấm, vẫn còn là mục tiêu đấu tranh ở phía trước, sự thật là 67 năm nay tự do công dân chỉ mới tồn tại thực sự trên tuyên ngôn, trên diễn văn, trên văn kiện, trên cửa miệng và trên giấy tờ, không hề tồn tại với đầy đủ ý nghĩa cao quý tự nhiên của nó trong cuộc sống.

Ngay ông Hồ Chí Minh người được coi là khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, người nêu cao các khẩu hiệu Độc lập – Tự do – Hạnh phúc, người nêu cao phương châm «không có gì quý hơn Độc lập Tự do», người còn nói «nếu đất nước đã được độc lập mà nhân dân không có tự do thì nền độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì», thì trên thực tế, mỉa mai thay, ông lại tỏ ra hết sức thờ ơ, hầu như vô cảm đối với mọi quyền tự do của công dân.

Có vô vàn dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho điều đó.

Trong 24 năm làm chủ tịch nước, chủ tịch đảng CS, làm lãnh tụ tối cao đảng và nhà nước, ông vẫn chủ trương kiểm duyệt gắt gao xuất bản và báo chí, bóp ngẹt báo chí tư nhân. Khi phong trào Nhân văn Giai phẩm nổ ra, những Nguyễn Hữu Đang, Phan Khôi, Phùng Quán, Lê Đạt, Trần Dần…chỉ yêu cầu được tự do sáng tác, đề nghị các nhà lãnh đạo tư tưởng, văn hóa, các chính ủy trong quân đội chớ can thiệp quá sâu vào sáng tác văn học nghệ thuật, rồi bị những Trường Chinh, Tố Hữu, Nguyễn Chí Thanh, Hoàng Tùng «đánh» cho tơi bời khói lửa, vậy mà ông không chút động lòng bênh vực những công dân ngay thật, còn vào hùa trừng phạt những người đòi tự do cho mình và cho toàn xã hội.

Anh Nguyễn Hữu Đang gửi bao nhiêu thư cho ông cầu cứu, ông không một lần trả lời, ngoảnh mặt quay đi với người từng là trưởng ban tổ chức lễ Độc lập, người lãnh đạo Hội Văn hóa Cứu quốc của Việt Minh, người từng đôn đốc dựng đài cao cho ông Hồ lên đọc bản Tuyên ngôn lịch sử.

Tệ hơn nữa là khi người Sỹ quan thân cận của chủ tịch nước – Officier d’ ordonnance du Président – Vũ Đình Huỳnh, cũng là thư ký riêng thân tín của ông hàng chục năm, năm 1964 bị chụp mũ là «xét lại, tay sai Moscow», cũng gửi thư và vợ ông là bà Tề đến cầu cứu ông, ông Hồ vẫn thản nhiên, không một lời an ủi hay bênh vực.

Còn bao nhiêu sự kiện khác. Ông Hồ biết cả. Nhưng ông bất động. Mà ông còn có thể sợ ai nữa. Lúc ấy ông Lê Duẩn, ông Lê Đức Thọ chưa dám hỗn láo hạn chế quyền lực của ông với cái lý do «hãy để ông Cụ nghỉ, đừng làm phiền lòng ổng». Ông chỉ cần phê một chữ, lắc đầu một cái, là có thể cứu người công dân ưu tú khỏi oan trái. Nhưng không. Ông bất động, vì vô cảm. Vì ông vô cảm với bất công, với oan trái, với tự do công dân bị xâm phạm.

Anh Hà Minh Tuân, nhà văn quân đội có tài, chỉ sơ hở một vài câu trong cuốn tiểu thuyết «Vào đời» bị đại tướng Nguyễn Chí Thanh phang một đòn «văn tư sản đồi trụy», từ đó sạt nghiệp văn chương, cũng như nhà thơ tài hoa Quang Dũng, cũng bị ông tướng võ biền Nguyễn Chí Thanh phang một đòn chí tử về tứ thơ từ Tây Bắc «nhớ về Hà Nội bóng Kiều thơm» là «sa đọa tư sản», tất cả bị đưa lên phê phán trên báo, ông Hồ biết rõ cả, nhưng ông không tỏ thái độ, có nghĩa là ông bênh các quan đàn áp lương dân, ông không mảy may rung động khi «nước có độc lập mà dân không được tự do».

Rồi vụ bà Nguyễn Thị Năm ở Đồng Bẩm – Thái Nguyên bị tử hình theo ý kiến cố vấn Tàu, ông Hồ được ông Hoàng Quốc Việt chạy đến cầu cứu vì bà Năm từng nuôi cán bộ cộng sản, có 2 con đi bộ đội, ông Hồ chỉ «thế a!» rồi im thin thít. Đó quan niệm của người khai sinh ra nước Việt Nam độc lập và tự do là nghèo nàn ấm ớ như thế đó.

Nhiều nhà dân chủ bây giờ đã thấy rõ nếu so sánh lập trường dân chủ tự do của ông Hồ với nhà chí sỹ Phan Chu Trinh thì thấy rất rõ là ông Tây Hồ đã vượt ông Hồ cả một cái đầu. Tôi đã để thì giờ đọc Hồ Chí Minh toàn tập và những trước tác của Phan Chu Trinh để so sánh. Ông Hồ viết sách, viết báo, diễn thuyết khá nhiều, nhưng ông chỉ tập trung lên án mạnh và khá sâu bọn thực dân Tây Phương, bọn thực dân Pháp cầm quyền bóc lột áp bức dân thuộc địa, nhưng ông hầu như bỏ qua mọi hình thức bóc lột đàn áp, bất công tinh vi của người Việt đối với người Việt mình. Các bạn trẻ xin hãy đọc hàng ngàn câu thơ trong tập Tỉnh Quốc Hồn Ca của Phan Tây Hồ, sẽ thấy rõ các chủ trương của ông : nâng dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh là cần thiết, cấp bách, quý báu và hiện đại biết bao.

Phan Tây Hồ tuyên chiến mạnh mẽ, sâu sắc với mọi nét văn hóa lạc hậu, cổ hủ của xã hội Việt Nam, tệ nạn trọng nam khinh nữ, thói tham quan ô lại, tệ cường hào quan liêu, thói học vẹt theo thi cử, giảng giải kỹ quyền công dân, tinh thần thượng tôn luật pháp, quyền liên kết lập hội, cổ vũ lối nghiên cứu khoa học theo tư duy độc lập tự chủ kiểu thực nghiệm và thực chứng…Có thể nói tuy Phan Chu Trinh là Phó bảng Hán học nhưng trên thực tế là nhà văn hóa hiện đại nhất, hấp thu tinh túy của văn hóa Tây phương nhuần nhuyễn nhất, có hệ thống và rất thực tiễn. Có cơ sở để kết luận rằng ông Phan Chu Trinh là chiến sỹ Dân Chủ và Nhân Quyền đầu tiên và sâu sắc nhất trong lịch sử nước ta, và tư duy duy tân của ông hiện vẫn là chuyện thời sự cần thiết nóng hổi nhất.

Ông Phan và ông Hồ đều sống ở Pháp khá lâu nhưng ai tiếp thu thật sự nền văn hóa – chính trị mới mẻ tiến bộ của Pháp, có thể khẳng định là ông Phan vượt trội một cách nổi bật, như người dẫn đầu cuộc đua và kẻ mang đèn đỏ. Vì khi cầm quyền ông Hồ và những kẻ kế thừa ông đã quay lưng lại với tự do của người công dân và chà đạp nhân quyền không thương tiếc.

Đó là vì ông sống ở Pháp rồi còn sang Moscow một thời gian dài, ăn lương hàng tháng của Quốc tế CS, khi tư duy chính trị đang chín và đang định hình, bị trực tiếp Stalin và đồng chí của ông ta nhào nặn vào khuôn phép, được đào tạo ở Học viện Đông phương cộng sản, hết họp Đại hội V của Quốc tế CS (tháng 6/1924), lại họp Đại hội Quốc tế Công hội Đỏ, rồi Quốc tế CS Nông dân, rồi cả Quốc tế Phụ nữ và Quốc tế Thanh niên cũng như Quốc tế Cứu tế Đỏ. Rồi một thời gian dài ở Trung Quốc dưới trướng của Mao, Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, sau đó với hàng trăm cố vấn của «bác Mao» quanh mình, ông chỉ có một ý nghĩ chính trị mãnh liệt là nhuộm đỏ cả Bắc cả Nam nước ta, nhuộm đỏ cả Lào và Miên, cho đến nhuộm đỏ cả Đông Nam Á và thế giới, sứ mệnh được các lãnh tụ quốc tế của ông là ông Xít và ông Mao giao cho ông.

Cho nên tháng Tám năm nay, nhắc đến bản Tuyên ngôn Độc lập, điều mỉa mai cay đắng khổng lồ là những chữ Tự do, Dân chủ, Nhân quyền trên đó sau 67 năm vẫn còn là những chữ rỗng ruột, những mỹ từ trên giấy, những lời hứa hão huyền, những quả lừa khổng lồ dai dẳng, những món nợ trầm luân của ông Hồ, của đảng Cộng sản đối với dân ta.

24 năm ông Hồ trực tiếp cầm quyền, công dân Việt Nam chỉ được làm những điều gì đảng cho phép, mọi người ngoài đảng chỉ là công dân dự bị, loại hai, bị phân biệt đối xử theo lý lịch, không một công dân nào có hộ chiếu để xuất ngoại, người nông dân tự do, người buôn bán tự do…là chuyện viển vông không tồn tại.

Đến nay, trong đổi mới, gia tài ông Hồ để lại tuy có điều chỉnh chút ít, nhưng đường lối cơ bản theo chủ nghĩa Mác-Lenin vẫn là một xã hội tật bệnh hiểm nghèo, trong đó lỗ hổng cực kỳ bi đát là thiếu dân chủ tự do, thiếu nhân quyền vẫn cứ toang hoác thêm. Vẫn là một không gian xã hội không có dưỡng khí, ngột ngạt đến ngẹt thở. Đây là bất hạnh dai dẳng lớn nhất của dân ta khi so sánh với nhân dân Thái Lan, Philippine, Indonesia, Malaysia gần ta, chưa nói đến dân Ấn Độ, Nhật Bản…

Trên đây là món nợ lớn nhất mà toàn dân ta đang trên đà thức tỉnh để đòi lại cho nhân dân ta và muôn đời con cháu, món nợ lưu cữu 67 năm, lãnh đạo đảng CS không thể trì hoãn và cố tình bỏ quên mãi được.

*****

Nguồn: http://www.voatiengviet.com/