Thứ Năm, 23 tháng 8, 2012

Những điểm đến tuyệt vời cho tuần trăng mật

Thu sang với nắng vàng, gió nhẹ, đây thời điểm thuận lợi để các đôi uyên ương xây tổ ấm. Và để tận hưởng trọn vẹn hạnh phúc lứa đôi, hãy để chúng tôi giới thiệu tới các bạn những điểm đến thú vị. 1. Tuyệt đẹp Sapa Sa Pa – Lào Cai đang bước vào thu với phong cảnh những cánh đồng lúa chín vàng đẹp như mơ trên những thửa ruộng bậc thang, nằm dưới chân đỉnh núi Phan Xi Păng hùng vĩ. Là mùa đẹp nhất trong năm; những thửa ruộng bậc thang có từ hàng trăm năm nay “như chiếc thang lên trời” hấp dẫn du khách trong và ngoài nước tới chiêm ngưỡng. Những thửa ruộng dù to hay nhỏ đều được “chạm khắc” thật bắt mắt và thu hút người xem. Đặc biệt những cánh đồng rộng hàng trăm héc ta ở Tả Van, Lao Chải, Tả Phìn… giống như những bức tranh phong cảnh khổng lồ với những đường nét uốn lượn mềm mại mà các “họa sĩ chân đất” vẽ nên. Ruộng bậc thang Sa Pa đang tạo nên một sản phẩm du lịch độc đáo của Việt Nam, nhất là sau khi tạp chí du lịch Travel and Leisure (Mỹ) bình chọn là một trong 7 ruộng bậc thang kỳ vĩ nhất châu Á và thế giới.
2. Ngắm trăng sao trên Vịnh Hạ Long Có thể bạn đã tới Hạ Long nhiều lần và Hạ Long không còn là điểm đến quá xa lạ với mỗi du khách Việt Nam. Nhưng đến Hạ Long vào mùa thu, bạn sẽ có một cảm nhận khác biệt. Mùa thu mang đến cho Hạ Long những đêm trăng huyền diệu. Ánh trăng chiếu xuống mặt vịnh, mặt nước như được dát một lớp thủy ngân óng ánh, núi đá cũng như vàng hơn; xa xa vài ba chiếc thuyền chài nhỏ buông lưới... Giữa không gian mờ ảo, yên tĩnh, du khách có dịp cùng nhau ăn uống, nhìn ngắm trăng sao. Đây là loại hình tour trăng mật mà du khách trong nước đã chọn trong suốt thời gian qua. 3. Đà Lạt muôn sắc hoa Đà Lạt mùa thu tiết trời hơi se lạnh buổi sớm với sương bao phủ, tuy nhiên gần trưa những tia nắng xuất hiện làm thành phố bừng tỉnh. Với chiếc áo khoác nhẹ, du khách đã sẵn sàng để hoà mình vào thiên nhiên nơi đây. Trên những con phố nhỏ xinh, đâu đâu ta cũng có thể bắt gặp hoa, hoa từ vỉa hè đến công viên, từ bờ rào khu biệt thự cổ cho đến những hiên nhà nhỏ xinh. Đến Đà Lạt, du khách có thể dành thời gian cả ngày để chụp hoa mà không biết chán. Đêm đến, những gánh hàng trong chợ đêm Đà Lạt lại thu hút khách từ khắp nơi trong thành phố đổ về khu trung tâm. Mỗi gánh hàng có một ngọn đèn thắp bằng dầu hoả, ánh sáng chỉ vừa đủ cho khách thấy gánh hàng có những món ăn gì để lựa chọn. 4. Đến Hà Giang thả hồn cùng mây ngàn bay Ðến Hà Giang, thăm Quản Bạ ngắm nhìn cổng trời, núi đôi, thăm Yên Minh nhìn rừng thông đẹp nhất Việt Nam, thăm Sủng Là có ngôi nhà trong “Chuyện Của Pao”, thăm Phó Bảng – một trong những cửa khẩu chính của Hà Giang (cột mốc gianh giới Việt Trung) với những mái nhà lợp ngói âm dương mang đậm dáng dấp của người Hoa. Tiếp đó, bạn có thể đến thăm cao nguyên Ðồng Văn để thử lòng can đảm của du khách bởi đèo cao vực thẳm nối tiếp nhau. Song đổi lại, bạn sẽ được đắm mình với thiên nhiên hùng vĩ, thả hồn trong tiếng khèn, tiếng sáo, hòa mình trong buổi chợ phiên của dân bản, ăn món thắng cố ngựa, uống rượu ngô, mua đồ thổ cẩm và đặc biệt là thịt trâu gác bếp...
Nhưng nếu bạn chưa lên Lũng Cú thì coi như chưa đến Ðồng Văn, bởi Lũng Cú là "nóc nhà của Việt Nam" nơi mà "cúi mặt sát đất, ngẩng mặt đụng trời". Leo lên cột cờ Lũng Cú có thể thu gọn tầm mắt cả một thế giới từ trên cao. Ngoài ra, việc thám hiểm đèo Mã Phì Lèng – nơi được mệnh danh là đèo tình yêu, một trong tứ đại đỉnh đèo cũng tạo cho người chơi những cảm giác thú vị. Chắc chắn sẽ làm bạn phải ngẩn ngơ khi rời chốn xa xôi này. 5. Bình yên nơi đảo ngọc Phú Quốc
Hiện đã có đường bay thẳng từ Hà Nội đến Phú Quốc (Kiên Giang) nên thời gian đi lại cũng được rút ngắn. Sau một mùa hè náo nhiệt, Phú Quốc lại trở về dáng vẻ bình yên vốn có. Các dịch vụ vận chuyển, khách sạn, nhà hàng theo đó cũng bớt căng thẳng hơn. Đến Phú Quốc thời điểm này, du khách không chỉ thư giãn trên những bãi biển tuyệt đẹp ngập tràn ánh nắng mà còn thưởng thức nhiều sản vật đặc trưng của vùng biển này như hải sản, trái cây tươi ngon, những vườn hồ tiêu thơm nức mũi và nước mắm hảo hạng có thể mang về làm quà. Ưa thích những hoạt động sôi nổi, du khách có thể tham gia lặn biển ngắm san hô hoặc theo thuyền của ngư dân ra khơi câu mực. Giữa mênh mông biển đêm, bạn sẽ tự tay câu và thưởng thức những con mực tươi ngon theo kiểu dã chiến ngay trên thuyền
6. Mộc Châu ngập tràn sắc hoa Lang thang trên những đồi chè đang nở hoa, ngắm bầu trời xanh trong lồng lộng từ trên cao, nhón chân bước qua những phiến đá rêu phong của thác Dải Yếm, tò mò với Hang Dơi, hay đơn giản chỉ là nhấm nháp chút hương vị mát lạnh mỗi sớm sương chưa tan vẫn giăng mắc khắp các hang cùng ngõ hẻm của Mộc Châu, chắc chắn sẽ mang đến cho bạn những cảm giác thật khó diễn tả. Có thể nói, không khí tại Mộc Châu là một trong những món quà hiếm có và quý giá nhất của vùng đất này. Khu cao nguyên mát mẻ vào mùa hè, se se lạnh mùa thu, lạnh cóng vào mùa đông và ấm áp khi xuân về đã không còn là cái tên xa lạ với nhiều người khi mùa hoa về. Đến đây, có người chỉ để thư giãn cuối tuần, tự thưởng cho mình một bữa sáng nhẹ nhàng với ly sữa tươi nóng hổi nguyên chất và chiếc bánh sừng bò thơm thơm giá rẻ, chụp cho nhau những tấm ảnh đẹp trong khung trời đầy sắc hoa trong những vườn cải trắng, vườn hoa hướng dương, vườn lan, bên cây hồng lúc lỉu quả chín mọng hay trên đồi chè cao tít tắp xanh mướt xa xa...
7. Độc đáo hồ Ba Bể - thác Bản Giốc Người xưa gọi hồ Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn) là "Thiên nhiên đệ nhất hồ". Thuê thuyền độc mộc lênh đênh giữa đêm trên hồ Ba Bể mới là điều khác lạ và kỳ diệu. Trong hơi men của rượu, vị tanh tanh của cá nướng, và vị ngọt đầu môi của... bánh bích quy, mang đi để nhấm nháp trên thuyền, du khách sẽ cảm nhận được những khác biệt của phong cảnh nơi đây. So với Vịnh Hạ Long, nơi có núi trên biển thì ở đây, Ba Bể lại có biển trên núi. Đó là điều khác biệt, độc đáo, không nơi nào có. Sau khi nghỉ đêm tại Cao Bằng, sáng hôm sau, du khách có thể đi thăm thác Bản Giốc - ngọn thác đẹp nhất, hùng vĩ nhất Việt Nam nằm trên đường biên giới Việt Trung. Vào những hôm trời nắng, ánh nắng chiếu vào dòng thác qua làn nước bụi mù mịt tạo nên những chiếc cầu vồng nên thơ, lung linh, huyền ảo. 8. Trong vắt bầu trời xanh Hà Nội Mùa thu Hà Nội, không chỉ là cái nắng vàng tơ mơn man, ấm áp, là bầu trời thăm thẳm trong vắt không gợn mây giữa trưa, là hương quả đầy mời gọi, mà còn là nét quyến rũ đến ngọt say người phương Nam với những đêm trăng và hoa sữa. Đêm và hoa mùa Thu Hà Nội đẹp lạ lắm. Đêm tĩnh lặng, nhẹ lâng lâng, trong veo. Những ồn ào, vất vả của ngày hình như ngủ theo mặt trời, chỉ nghe có tiếng ri rỉ của dế, tiếng sột soạt của chiếc lá rơi, xa xôi đâu đó tiếng cá quẫy nước giỡn trăng trong hồ… Ánh trăng gần rằm phủ xuống vầng sáng mát lạnh như ướp đá, bóng hàng cây hoa sữa sẫm màu, để nổi bật những chấm trắng lấm tấm của từng chùm hoa, như một vệt ngân hà lạc xuống. Đêm đẹp như mộng. Đêm sóng sánh, hoa sữa ngọt say tung thả mùi hương theo gió lan tỏa cả mặt hồ lóang ánh bạc của trăng. Trăng, hoa lẫn vào sương giăng mỏng mờ, lãng đãng, làm nhòe cảnh vật ẩn hiện, bí ẩn. Đến Hà Nội, các bạn ở phương Nam có thể tới thăm Bắc Bộ Phủ, Quảng trường Ba Đình, lăng Bác, cầu Long Biên, hồ Gươm… và nhiều di tích lịch sử cách mạng khác. Du lịch, GO! - Theo Mai Hương (báo Phunu)

Đánh án Kiên “bạc” chỉ là một phần của chuyên án chính trị bảo vệ chế độ

Tháng Tám 22, 2012
- Có nhiều tin kỹ thuật từ mạng lưới Tổng cục 2 quân đội cho thấy âm mưu soán Đảng, lật đổ chế độ chưa bao giờ rõ như lúc này. – Chuyên án bảo vệ chế độ (thực chất là một kế hoạch) mang bí số riêng, được một Tổ Công tác âm thầm thực hiện việc chuẩn bị, trinh sát, củng cố chứng cứ. Tổ Công tác, gồm những cán bộ có phẩm chất chính trị ưu tú nhất, trung kiên nhất, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo cao nhất trong Quân ủy. – Yêu cầu cao nhất là phải bí mật vì sẽ đụng chạm đến nhiều cán bộ chủ chốt của Đảng, Chính phủ, cùng mạng lưới của họ. “Nhóm lợi ích” đã thế chỗ của “Thế lực thù địch” trong báo cáo Lợi dụng sự yếu kém về tổ chức nhà nước, sự chậm chễ có nguyên nhân khách quan, chủ quan trong xây dựng nhà nước pháp quyền, đẩy mạnh dân chủ hóa, “Nhóm lợi ích” trong đó có một số cán bộ giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Chính phủ, đã vơ vét tài nguyên, của cải của nhà nước và nhân dân, trở thành thế lực nguy hiểm nhất đe dọa sự sống còn của Đảng từ bên trong. Được cảnh báo về mối hiểm họa từ bên trong đe dọa trực tiếp sự sống còn của Đảng, đẩy đất nước đến khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất kể từ 1985, trước Hội nghị Trung ương, Tổng bí thư đã làm việc nhiều lần với: - Tổng cục 2, khẳng định lại cơ quan tình báo quân đội là chỗ dựa của chế độ. - Bộ Công an, Tổng bí thư nhấn mạnh Công an là thanh kiếm bảo vệ chế độ. Sau Hội nghị Trung ương vừa qua, ông Trọng làm việc hẳn bên VP của Quân ủy Trung ương trong Bộ QP mà ít khi về ngồi bên Trụ sở Trung ương Đảng, trừ lúc cần. “Nhóm lợi ích” lũng đoạn và đã chiếm đoạt trên 50% tài sản quốc gia: - Lũng đoạn toàn bộ các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước, xương sống của kinh tế quốc gia - Thao túng hệ thống tài chính, ngân hàng - Làm rối loạn chính sách tiền tệ. - Chiếm đoạt và bán rẻ tài nguyên thiên nhiên. - Làm tê liệt nền sản xuất - Huy động lực lượng vũ trang “thu hồi” đất bừa bãi phục vụ lợi ích cá nhân. - Làm rối loạn nhiều chính sách khác về giáo dục, y tế, văn hóa. - Quan hệ trái phép với nhiều nhóm lợi ích nước ngoài. Âm mưu lớn “Nhóm lợi ích” đã cùng nhau mưu toan lớn nhằm phá bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. - Tiếp tục lũng đoạn các cơ quan Đảng, chính quyền. - Mua chuộc cán bộ chủ chốt, làm tha hóa bộ máy cảnh sát, an ninh, quân đội tại nhiều cấp. - Làm tê liệt các nguyên tắc tổ chức từ bên trong. - Làm vô hiệu hóa các cơ quan chức năng của Đảng Cộng sản. - Biến công cụ chuyên chính thành những cỗ máy phục vụ lợi ích của các bố già. - Biến nền báo chí cách mạng, các cơ quan quản lý báo chí thành những người đưa tin, tuyên truyền cho các nhóm lợi ích. - Những chủ trương lớn về xây dựng Đảng, dân chủ hóa chỉ được triển khai qua loa, đại khái. - Tiến hành các hoạt động tinh vi đặt Đảng vào thế đối đầu với nhân dân, hướng sự bất bình của nhân dân vào Đảng. - Mưu toan ám sát một số cán bộ cao cấp (nếu cần). Xây dựng cương lĩnh chính trị lật đổ Cùng với việc vơ vét, lũng đoạn, phá hoại tổ chức Đảng, “Nhóm lợi ích” ráo riết tiến hành xây dựng cương lĩnh chính trị phục vụ “giai đoạn mới”. Mục tiêu cương lĩnh không phải là xây dựng một chế độ dân chủ thực sự mà “Nhóm lợi ích” toan tính dựng lên một nhà nước với chế độ tổng thống độc tài lãnh đạo do ”Nhóm” kiểm soát. “Nhóm lợi ích” công khai cổ vũ mô hình của Nga thời hậu Cộng sản, đồng thời không giấu diếm bàn bạc về “sự chuyển tiếp” trong hòa bình. Một số bố già được “Nhóm” cử đi tham quan, nghiên cứu nhằm hoàn thiện cương lĩnh chính trị. Theo cương lĩnh chính trị, một nhà nước tư bản độc tài sẽ được dựng lên với tổng thống do các bố già thao túng. Bộ máy an ninh quân đội, truyền thông sẽ phục vụ lợi ích của các bố già này, toàn bộ tài sản quốc gia sẽ tập trung vào tay các Soái, các Bố. Những ai đứng sau cương lĩnh này là câu hỏi lớn nhất mà những người thực hiện Kế hoạch tạm gọi là “Bảo vệ chế độ” đang ráo riết tìm câu trả lời và câu trả lời chắc chắn sẽ được sử dụng để Đảng thực hiện thanh trừng nội bộ. Quy mô và phạm vi thanh trừng còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố nhưng có tin là không loại trừ cả Thủ tướng. Trong những ngày tới cuộc đấu tranh nội bộ này của Đảng Cộng sản sẽ diễn ra rất gay gắt nhưng thầm lặng. Có tin là đoàn Chính phủ đã xin vào chúc mừng sinh nhật Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhưng vẫn chưa được “sắp xếp”. http://webwarper.net/ww/~av/caunhattan.wordpress.com/2012/08/22/danh-an-kien-bac-chi-la-mot-phan-cua-chuyen-an-chinh-tri-bao-ve-che-do/

Trần Trung Đạo: Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên

Trần Trung Đạo

Khi nhắc đến quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, giới lãnh đạo CSVN thường nhấn mạnh đến 16 chữ vàng “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” do Giang Trạch Dân thay mặt lãnh đạo Cộng Sản Trung Quốc (CSTQ) tặng Lê Khả Phiêu, đại diện giới lãnh đạo CSVN đầu năm 1999 nhưng không hề nhắc đến 12 lời nguyền rủa “Việt Nam là côn đồ, phải dạy cho Việt Nam bài học” do Đặng Tiểu Bình, thay mặt CSTQ tặng CSVN vào cuối năm 1978 trong chuyến đi thăm các quốc gia Đông Nam Á của y.

Gọi là lời nguyền rủa vì họ Đặng không viết ra để gởi Bộ Chính trị đảng CSVN qua đường ngoại giao mà do chính giọng Tứ Xuyên của y phát biểu trên đài truyền hình cho nhân dân Đông Nam Á và thế giới cùng nghe.

Lý do nguyền rủa

Phải công tâm mà nói, mặc dù dùng chữ “Việt Nam” họ Đặng nhắm vào đảng CSVN chứ không hàm ý dân tộc Việt Nam hay nhân dân Việt Nam. Và cũng công tâm mà nói, sau khi tìm hiểu kỹ mối quan hệ giữa hai đảng CS, việc Đặng Tiểu Bình rủa đảng CSVN là “côn đồ” không phải là quá đáng.

Trung Quốc đổ quá nhiều xương máu, góp quá lớn công sức và của cải cho chiến thắng của đảng CSVN. Trong tác phẩm Trung Quốc lâm chiến: Một bộ bách khoa (China at War: An Encyclopedia) tác giả Xiaobing Li liệt kê các đóng góp cụ thể của 320 ngàn quân Trung Quốc trong chiến tranh Việt Nam:

“Mặc dù đang mạnh dần, Trung Quốc vẫn lo ngại sự hiện diện ngày càng mở rộng của Mỹ tại Đông Nam Á. Trong chiến tranh Việt Nam giai đoạn năm 1964 đến năm 1973, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLA) đã lần nữa can thiệp. Tháng Bảy năm 1965, Trung Quốc bắt đầu đưa quân vào Bắc Việt, bao gồm các đơn vị hỏa tiển địa-không (SAM), phòng không, làm đường rầy xe lửa, công binh, vét mìn, hậu cần. Quân đội Trung Quốc điều khiển các giàn hỏa tiển phòng không, chỉ huy các đơn vị SAM, xây dựng và sửa chữa đường sá, cầu cống, đường xe lửa, nhà máy. Sự tham gia của Trung Quốc giúp cho Việt Nam có điều kiện gởi thêm gởi nhiều đơn vị Bắc Việt vào Nam đánh Mỹ. Giữa năm 1965 và năm 1968, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt 23 sư đoàn, gồm 95 trung đoàn, tổng số lên đến 320 ngàn quân. Vào cao điểm năm 1967, có 170,000 quân Trung Quốc hiện diện”.

Nội dung này cũng phù hợp với con số do hãng tin Reuter loan đi ngày 16 tháng Năm, 1989 dựa theo tin của China News Service “Hãng tin bán chính thức của Trung Quốc trong một thông báo được theo dõi tại Hong Kong cho biết Trung Quốc đã gởi 320 ngàn quân sang Việt Nam trong thập niên 1960”. Về con số thương vong, bản tin còn cho biết hơn 4 ngàn lính Trung Quốc đã chết trong cuộc chiến Việt Nam. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý dưới các chế độ CS, con số thương vong là một thống kê có tính cách chính trị, con số thật sự không được tiết lộ. Giống như cách CSVN tổng kết thương vong trong chiến tranh Việt Nam, khi nghĩ đến chuyện Mỹ bồi thường chiến tranh, họ đưa ra con số quá cao nhưng khi khoe khoang chiến thắng họ lại hạ con số tổn thất xuống thấp.

Trung Quốc, trong lúc dành dụm từng ký gạo gởi giúp Việt Nam, phải trải qua nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử loài người do Mao Trạch Đông gây ra trong thời kỳ Bước tiến nhảy vọt và Công xã nhân dân từ năm 1958 đến năm 1962. Không có một con số chính xác số người chết đói tại Trung Quốc nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đã đồng ý con số lên đến vài chục triệu người. Tác giả Peng Xizhe dự đoán thấp nhất với 23 triệu người và Frank Dikötter, giáo sư môn Lịch sử Trung Quốc Hiện đại, dự đoán ít nhất có 45 triệu người chết, trong đó khoảng 2 đến 3 triệu chết vì tra tấn. Phần lớn các nhà nghiên cứu còn lại cho rằng khoảng 30 triệu người đã chết đói. Viết trên New York Times, giáo sư Frank Dikötter trích dẫn lá thư viết tay của viên Giám đốc Sở Anh Ninh Công Cộng tỉnh Tứ Xuyên báo cáo lên cấp trên tỉnh của y có 10.6 triệu người chết đói. Ở Cam Túc có 50 trường hợp ăn thịt người. Nhà báo Daniel Southerland viết trên Washington Post, tại công xã Fengyang có 63 trường hợp người ăn người và tại công xã Damiao hai vợ chồng Chen Zhangying và Zhao Xizhen luộc chín đứa con 8 tuổi của mình để ăn. Riêng tại công xã Wudian có cả trường hợp bán thịt của chính mình như bán thịt heo. Nói chung, những năm cuối thập niên 1950 cho đến đầu 1960 là những năm dân số Trung Quốc giảm thấp nhất nhưng không phải vì hạn chế sinh đẻ nhưng chết quá nhiều.

Tuy nhiên, cũng ngay trong thời gian dân Trung Quốc có nơi phải ăn thịt người mà sống, giới lãnh đạo CSTQ đã vét kho gởi sang nuôi CSVN.

Dưới đây là nội dung bản tổng kết của báo Nhân Dân phát hành tại Hà Nội, số 2021 ra ngày 28 tháng Chín 1959 nhân dịp kỷ niệm 10 năm thành lập nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa được dịch sang tiếng Anh và lưu trữ trong Thư Viện Quốc Hội Hoa Kỳ (Libray of Congress):

“Trong năm năm qua, Trung Quốc đã dành cho Việt Nam sự giúp đỡ nhiệt tình. Chỉ riêng tiền bạc, trong đó Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, đã lên đến 900 triệu Yuan, đây là số lượng bằng thu nhập nội địa của ngân sách Việt Nam trong ba năm 1955, 1956, 1957 cộng lại… Trong công nghiệp, Trung Quốc đã giúp chúng ta trong lãnh vực khai thác hầm mỏ, sản xuất điện khí, cải thiện sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp thực phẩm, công nghiệp hàng tiêu dùng, công nghiệp cơ khí, công nghiệp sản xuất phân bón và hóa chất, công nghiệp vật liệu xây dựng, công nghiệp dầu khí, công nghiệp sắc thép… Mặc dù trong mười năm xây dựng, Trung Quốc đạt được nhiều thành quả vật chất, vẫn còn là một nước nghèo. Dù sao, Trung Quốc đã hết lòng viện trợ chúng ta. Do đó, chúng ta càng biết ơn sự trợ giúp đó”.

Mối tình Việt Trung đã vượt qua khỏi giới hạn quan hệ hai nước bình thường, như Dương Danh Dy, nguyên Tổng lãnh sự Việt Nam tại Quảng Châu, viết trong bài Hồ Chí Minh với Trung Quốc: “Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác Hồ đã đi tới nhiều nơi trên thế giới, nhưng có lẽ Trung Quốc là một trong mấy nước Bác lui tới nhiều lần nhất, sinh sống ở đó trong thời gian dài nhất, có cống hiến rất lớn cho phong trào cách mạng cũng như để lại ở đó nhiều tình cảm nhất”. Nói chung, từ đời sống đến tình cảm, mặt nào cũng “nhất”.

Đảng CSVN đã sống bằng cơm gạo Trung Quốc suốt ba năm ngân sách các năm 1955, 1956, 1957 trong khi cũng ngay thời gian đó quê hương Tứ Xuyên của Đặng Tiểu Bình chết trên 10 triệu người, chết không kịp chôn, chết đầy đường phố.

Từ thời gian thành lập năm 1930 đến cuối thập niên 1960, dây chùm gởi CSVN sống bám vào thân cây CSTQ từ vật chất đến tư tưởng. Câu nói quen thuộc trong bang giao quốc tế “quốc gia không có bạn hay thù mãi mãi mà chỉ có quyền lợi” không áp dụng được với Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ Việt Trung không giống như quan hệ ngoại giao giữa bất cứ hai nước nào trong lịch sử cận đại. Những hy sinh của đảng CSTQ cho đảng CSVN quá lớn để quên và quá cao để đáp đền đầy đủ. Không có sự trợ giúp của đảng CSTQ, không biết số phận đảng CSVN giờ này trôi giạt về đâu.

Phân tích để thấy, Đặng Tiểu Bình nguyền rủa đảng CSVN “côn đồ” không phải là quá nặng lời.

“Mối tình hữu nghị Việt – Hoa/ Vừa là đồng chí vừa là anh em”

Đảng CSTQ quan tâm và lo lắng cho đảng CSVN chỉ vì, ngoài lý do an ninh phên dậu phía nam Trung Quốc, họ còn luôn nghĩ đảng CSVN là một phần của đảng CSTQ.

Không chỉ phía Trung Quốc mà Việt Nam một thời rất lâu cũng thừa nhận điều đó. Tinh thần nô lệ Trung Quốc ăn sâu vào nhận thức của nhiều thế hệ lãnh đạo CSVN như Dương Danh Dy kể lại “Bác luôn coi sự nghiệp và lợi ích của cách mạng Trung Quốc như của chính mình.” Công hàm Phạm Văn Đồng bây giờ là chuyện lớn nhưng trong thời buổi thở nhờ bình dưỡng khí của Trung Quốc như báo Nhân Dân viết, công hàm chỉ là chuyện nhỏ. Nhiều người kết án 11 ủy viên trong Bộ Chính trị CSVN thuộc đại hội 2 năm 1951 ngu xuẩn khi viết công hàm 1958 nhưng đó là ngu xuẩn theo nhận thức ngày nay. Trong mắt lãnh đạo Đảng thời kỳ 1958, công hàm Phạm Văn Đồng lại là một hành động hết sức sáng suốt, thông minh, biểu hiện tính giai cấp, phù hợp nhu cầu phát triển đất nước và xu hướng cách mạng vô sản toàn thế giới. Mấy tổ yến trên hoang đảo xa xôi cách Đà Nẵng 170 hải lý làm sao sánh được với 900 triệu Yuan, làm sao so được sự hy sinh vô bờ bến của đảng CSTQ dành cho đảng CSVN, làm sao so được với cả một lịch sử gần gũi như anh với em, vợ với chồng, nước với sữa, môi với răng giữa hai đảng. Toàn bộ nội dung công hàm còn được đăng trên báo Nhân dân ngày 22 tháng 9 năm 1958 như một cách nhấn mạnh đến tầm nhìn xa thấy rộng của Đảng.

Tình càng nặng, nhớ càng sâu mà khi thù cũng sẽ rất lâu. Cuộc tình giữa hai đảng CS Trung Quốc và Việt Nam diễn theo một chu kỳ có đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông. Từ những ngày còn trẻ hẹn hò bên bờ sông Mác, bên suối Lê Nin, đã thề nguyền sống chết có nhau, hơn một lần sớt chia nhau từng hạt gạo, viết tặng nhau những dòng thơ vô cùng thắm thiết rồi khi chia tay trong mùa đông lạnh rét họ trở thành thù địch chẳng những chém giết không một chút xót thương mà còn mượn tay hàng xóm để tàn sát gia đình, chặt đầu con cái và thả trôi sông người thân của kẻ từng thề vinh nhục có nhau.

Ngày 17 tháng Hai năm 1979, Đặng Tiểu Bình phát động cuộc chiến tranh giới hạn xâm lăng lãnh thổ Việt Nam để “dạy cho Việt Nam một bài học”. Với số quân vượt trội nhiều lần và có yếu tố bất ngờ nhưng Trung Quốc đã chịu đựng tổn thất nặng nề ngay trong những ngày đầu của cuộc chiến. Sau tuần lễ đầu chịu đựng nhiều thiệt hại nhưng danh sách các vùng chiếm được chỉ là những làng xã dọc biên giới, Đặng Tiểu Bình bằng mọi giá phải chiếm cho được thành phố Lạng Sơn, thủ phủ tỉnh Lạng Sơn để lấy tiếng trước khi rút lui. Chiều ngày 4 tháng Ba, sau nhiều trận giao tranh đẫm máu quân Trung Quốc tiến vào Lạng Sơn. Khi rút khỏi những nơi này, quân Trung Quốc san bằng tất cả nhà cửa để trả thù cho số thương vong quá lớn. Ký giả Nayan Chanda thăm vùng giao tranh vài ngày sau cuộc chiến đã ghi nhận không chỉ các công sở nhà nước mà cả trường học, bịnh viện đều bị quân Trung Quốc giựt sập. Theo nhận xét của Đại Tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ, Trung Quốc thiệt hại chỉ trong vài ngày bằng hơn một nửa số tổn thất của Mỹ trong 10 năm tham dự chiến tranh Việt Nam. Thật vậy, với vũ khí lạc hậu và đạo quân đông đảo nhưng không có kinh nghiệm chiến trường, Đặng Tiểu Bình đã “học” nhiều hơn “dạy”.

Tái áp dụng chính sách cô lập Việt Nam

Mới đây CSTQ lần nữa mượn tay hàng xóm Campuchia để bao vây và cô lập Việt Nam như họ đã từng làm sau năm 1975. Cùng một mục tiêu nhưng khác về phương tiện. Vào năm 1978, phương tiện là vũ khí nhưng lần này tài chánh sẽ là phương tiện chính. Năm 1978, các quốc gia hội viên ASEAN ủng hộ quan điểm Đặng Tiểu Bình vì họ không muốn thấy một “Cu Ba phương đông” trong vùng Đông Nam Á. Năm 2012, ngoại trừ Philippines, các quốc gia như Thái, Miến, Brunei, Nam Dương, Mã Lai, Singapore đã nghiêng về phía Trung Quốc qua thái độ không muốn can thiệp vào xung đột biển Đông.

Lý do rất dễ hiểu. Nhìn vào cán cân ngoại thương cũng như vốn đầu tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN sẽ biết ngay họ làm như thế phát xuất từ lý do kinh tế và nỗi lo sợ Trung Quốc trừng phạt. Kể từ khi Thỏa hiệp Mậu dịch Công bằng Trung Quốc-ASEAN (The China-ASEAN Fair Trade Agreement) được ký kết năm 2010, các công ty Trung Quốc đổ tiền như nước vào ASEAN và hiện nay là thành viên thương mại lớn nhất trong vùng. Tổng giá trị mậu dịch giữa Trung Quốc và các nước ASEAN được dự tính sẽ tăng gấp đôi từ 231 tỉ đô la năm 2010 lên đến 500 tỉ đô la vào năm 2015 bao gồm hầu hết các ngành công nghiệp, nhẹ như tơ sợi đến nặng như sắt thép. Làm ăn với ASEAN, Trung Quốc rất yên tâm vì biết ASEAN không phải là một liên minh quân sự và trong nội bộ ASEAN chẳng nước nào tin tưởng nước nào.

Tham vọng khống chế ASEAN không phải là mới mà đã bắt đầu từ chuyến viếng thăm của Đặng Tiểu Bình đến các nước ASEAN từ năm 1978. Việc họ Đặng chọn Thái Lan như chặng đầu tiên chỉ vì vừa muốn ve vãn đồng minh thân cận Mỹ ở Đông Nam Á và cũng muốn dùng đất Thái để tiếp tục yểm trợ vũ khí cho Pol Pot. Tại mỗi chặng trên chuyến viếng thăm, Đặng Tiểu Bình nhấn mạnh Việt Nam, một “Cu Ba phương đông” như một đe dọa cho hòa bình và ổn định trong vùng Đông Nam Á. Trong số các lãnh tụ ASEAN thời đó chỉ có Lý Quang Diệu là người hiểu được tâm địa của họ Đặng. Đặng Tiểu Bình ngạc nhiên khi nghe Lý Quang Diệu phát biểu rằng các quốc gia Đông Nam Á lo ngại Trung Quốc nhiều hơn là lo ngại Việt Nam. Dù bất đồng một số điểm Đặng và Lý rất thán phục nhau về khả năng lãnh đạo, tính thực tế và biết nhìn xa về tương lai đất nước họ và thế giới.

Điều kiện kinh tế chính trị năm 2012 khác với điều kiện kinh tế chính trị năm 1979 nhưng đều bất lợi cho CSVN và cũng do bàn tay lông lá của Trung Quốc vận dụng từ bên trong. Chủ trương của Trung Quốc là không chế Việt Nam, giữ Việt Nam trong vòng khốn đốn, lạc hậu, nghèo nàn, ăn không ngon và ngủ không yên như thời Trung Quốc xúi dục Khmer Đỏ quậy phá vùng biên giới Tây-Nam Việt Nam. Lãnh đạo CSTQ vừa phải hành xử như một trong những cường quốc kinh tế nhưng cùng lúc không che giấu tham vọng thống trị biển Đông bằng mọi phương tiện. Và nếu phải chọn một đối tượng để dằn mặt các nước nhỏ trong vùng, không có đối tượng nào khác hơn là Việt Nam.

Sau một thời gian tương đối yên tĩnh, biết đâu trong những ngày tới, tiếng súng lại nổ vang ở Phú Quốc, Tây Ninh, An Giang và nạn “cáp duồn” lại xảy ra cho bà con đang làm ăn trên đất Campuchia. Khác với tình trạng năm 1977-1978, lần này CSVN nhiều lắm chỉ có thể phản ứng tự vệ dọc biên giới Việt Miên nhưng không thể, về cả điều kiện chính trị thế giới lẫn khả năng quân sự, đánh sập Campuchia trong một hai tuần như trước đây.

Trong cuộc chiến Việt Miên năm 1979, phía Việt Nam chiếm nhiều ưu thế về cả phương tiện chiến tranh lẫn kinh nghiệm chiến trường. Hai ưu thế đó không còn nữa. Suốt 37 năm, giới lãnh đạo đảng CSVN chỉ lo củng cố vai trò cai trị, tham nhũng, tập trung lực lượng an ninh vào việc trấn áp những người yêu nước mà bỏ qua một thế giới đang không ngừng thay đổi, đi lên và những lãnh đạo Campuchia gốc Kmer Đỏ đang mỗi ngày được hiện đại hóa về mọi mặt.

Pol Pot và Đặng Tiểu Bình

Nói đến Khmer Đỏ không thể không nhắc vai trò của Trung Quốc trong xung đột Việt Nam Campuchia. Pol Pot và đảng CS Campuchia là thủ phạm trực tiếp nhưng Đặng Tiểu Bình và đảng CSTQ cũng đã đóng vai trò quan trọng dẫn tới nạn diệt chủng Campuchia. Chính Hun Sen xác nhận điều này trong luận án của y: “Trung Quốc có vai trò quan trọng trong việc ủng hộ cuộc diệt chủng của Polpot đối với nhân dân Campuchia cũng như việc Polpot xâm lược Việt Nam”.

Quan hệ giữa Pol Pot và Trung Quốc bắt nguồn rất sớm và trở nên chặt chẽ về mặt lý luận sau khi Pol Pot bí mật viếng thăm Trung Quốc vào năm 1965. Y ở lại Trung Quốc nhiều tháng và làm việc với Đặng Tiểu Bình, lúc đó là Tổng bí thư đảng CSTQ. Pol Pot được Mao Trạch Đông chỉ dẫn nhiều điểm về lý luận cách mạng và chiến tranh nhân dân. Mao thậm chí còn tặng người học trò ngoan Pol Pot này ba chục cuốn sách của Marx, Engels, Lenin và Stalin. Dòng máu hung bạo, ác độc trong người của Pol Pot được nhuộm đỏ bằng chủ nghĩa Mao và chủ nghĩa dân tộc cực đoan Campuchia. Quan điểm cách mạng liên tục của Mao ảnh hưởng Pol Pot rất nhiều trong việc hoạch định các chiến lược tấn công chế độ Lon Nol thân Mỹ.

Pol Pot trở lại Trung Quốc và tham khảo với Đặng Tiểu Bình từ 28 tháng Chín đến 22 tháng 10, 1977. Đây là lần đầu tiên báo chí quốc tế chính thức biết Saloth Sar và Pol Pot chỉ là một người. Họ Đặng rất vui khi được Pol Pot chia sẻ quan điểm triệt để chống CSVN của y. Trung Quốc viện trợ cho Campuchia hàng trăm xe tăng, đại pháo và nhiều máy bay chiến đấu để chuẩn bị cho các trận đánh lớn có thể xảy ra. Trong giai đoạn này, Trung Quốc là đồng minh duy nhất của Khmer Đỏ. Pol Pot chủ trương chỉ cần một người Campuchia diệt được ba chục người Việt, dân Campuchia sẽ tiêu diệt toàn bộ dân tộc Việt Nam. Các cuộc đột kích vào đảo Thổ Châu, Phú Quốc, nhiều địa phương thuộc các tỉnh An Giang, Tây Ninh, đốt phát làng mạc, giết người, bắt cóc, bịt mắt thả sông của Khmer Đỏ trong giai đoạn 1977-1978 phát xuất từ chủ trương này.

Các trận đột kích liên tục của quân đội Pol Pot gây thiệt hại nặng cho dân Việt sống vùng biên giới đã dẫn đến cuộc phản tấn công của CSVN vào nội địa Campuchia trong những ngày cuối năm 1979, đánh bật tập đoàn Pol Pot vào rừng và ngày 8 tháng Giêng 1979 thiết lập chế độ thân CSVN Heng Samrin với Hun Sen là Bộ trưởng Ngoại Giao. Về mặt chiến lược, việc CSVN đánh sập chế độ Pol Pot là đúng nhưng vì không có một đồng minh nào ngoại trừ khối Liên Xô xa xôi, bị Trung Quốc, Mỹ, ASEAN liên kết nhau cô lập nên CSVN đã rơi vào vũng lầy Campuchia suốt mười năm.

Hun Sen là ai?

Hun Sen chẳng phải là người xa lạ. Y nguyên là Trung đoàn phó của một đơn vị Khmer Đỏ đào thoát theo Việt Nam và đóng vai Bộ trưởng Ngoại giao trong chính phủ Heng Samrin. Lý lịch của y cũng giống như các lãnh đạo CS thay đổi tùy theo thời thế. Một số nghiên cứu cho rằng y tham gia Khmer Đỏ khá sớm, khoảng 1967, nhưng Hun Sen phủ nhận và tự khai y chỉ gia nhập vào năm 1970 đáp lời kêu gọi của Hoàng thân Norodom Sihanouk. Giống như nhiều lãnh đạo Campuchia có quá khứ Khmer Đỏ khác, Hun Sen cố tình che giấu lý lịch của mình càng nhiều càng tốt.

Luật sư Brad Adams, Giám đốc Khu vực Á châu của Human Rights Watch, nhận xét Hun Sen là một kẻ có bản chất độc tài thô bạo không khác gì các nhà độc tài trong cùng “câu lạc bộ 10 ngàn”, ám chỉ một nhóm gồm những nhà độc tài thông qua bạo động, kiểm soát an ninh, dựa vào sự yểm trợ từ nước ngoài để kéo dài quyền lực cai trị trên 10 ngàn ngày. Sau sự sụp đổ của hàng loạt các nhà độc tài tại Tunisia, Egypt, Libya và Yemen, Hun Sen là một trong số rất ít hội viên của “câu lạc bộ 10 ngàn” còn nắm được quyền hành.

Tên danh dự đầy đủ của Hun Sen là Samdech Akeak Moha Sena Padei Techo Hun Sen còn dài hơn cả tên danh dự của nhà độc tài khát máu nhất Congo là Mobutu Sese Seko Nkuku Ngbendu wa Za Banga. Mới đây khi được hỏi liệu y có lo ngại sẽ bị lật đổ như các nhà độc tài Tunisia, Egypt, Libya, máu Khmer Đỏ trong người sục sôi lên và Hun Sen trả lời: “Tôi chẳng những làm suy yếu đối phương mà còn tận diệt chúng… Nếu kẻ nào nghĩ mình đủ mạnh để biểu tình, tôi sẽ đánh gục bọn chó đó và nhốt chúng vào trong cũi”.

Hun Sen không chỉ đe dọa thôi nhưng trong quá khứ y đã trấn áp đối lập một cách thô bạo nhiều lần. Trong năm 1991, khi các đại diện Liên Hiệp Quốc vào Campuchia tổ chức tuyển cử, Hun Sen đã ra lịnh cho an ninh dưới quyền tàn sát trên 100 đảng viên của một đảng đối lập ngay trước mắt của phái đoàn Liên Hiệp Quốc. Một lần khác, vào năm 1997, Hun Sen ra lịnh cho cận vệ tấn công bằng lựu đạn vào một buổi họp của lãnh tụ đối lập Sam Rainsy làm 16 người chết và hơn 150 người bị thương. Cũng trong năm 1997, lo ngại bị thất cử, Hun Sen tổ chức đảo chánh chống lại đảng Hoàng gia mà y đã liên minh. Hàng trăm người bị bắt và bị giết. Các nhân viên Liên Hiệp Quốc khi đào xác lên đã khám phá phần lớn đã bị bắn vào đầu trong lúc đang bị còng tay và bị bịt mắt. Những hình ảnh đó gợi lại cảnh tượng kinh hoàng của thời Pot Pot.

Hun Sen 1997 theo dấu chân Pol Pot 1977

Nhiều người cho rằng Hun Sen mới ngã về phía Trung Quốc mới đây. Điều đó không đúng. Khuynh hướng thân Trung Quốc của Hun Sen bắt đầu sau cuộc đảo chánh đẫm máu năm 1997. Cuộc đảo chánh đã làm y mất uy tín trong các lãnh đạo các quốc gia dân chủ Tây phương. Nhiều quốc gia đã ngưng viện trợ cho chính phủ Hun Sen hay tiếp tục viện trợ nhưng đưa ra các điều kiện phải tôn trọng nhân quyền.

Giống như Pol Pot trước đây, Hun Sen không còn đường nào khác ngoài việc đi tìm sự ủng hộ từ phía Trung Quốc. Dĩ nhiên giới lãnh đạo CSTQ nắm bắt cơ hội ngàn vàng này. Từ năm 1997 đến năm 2005, Trung Quốc cung cấp chính quyền Hun Sen 600 triệu đô la qua đầu tư, viện trợ không hoàn lại, hủy bỏ nợ đến thời hạn trả. Từ năm 2000, hàng loạt lãnh đạo cao cấp CSTQ lần lượt viếng thăm Campuchia. Tổng bí thư Giang Trạch Dân thăm Campuchia năm 2000, Chủ tịch Lý Bằng thăm Campuchia năm 2001, Thủ tướng Chu Dung Cơ thăm Campuchia năm 2002.

Đáp lại, trong cùng thời gian, Hun Sen đã thăm viếng Trung Quốc tất cả 6 lần. Hun Sen từng tuyên bố “Trung Quốc nói ít làm nhiều” vi viện trợ của Trung Quốc không đặt ra các điều kiện nhân quyền trong khi nhân quyền lại là tiền đề thảo luận với các nước dân chủ. Trong bang giao quốc tế, chế độ Hun Sen nhiệt tình ủng hộ các chính sách của CSTQ qua việc ngăn cấm các viên chức trong chính quyền y thăm viếng Đài Loan, ủng hộ chính sách “Một Trung Quốc”, y còn họa theo Trung Quốc khi lên tiếng kết án Mỹ trong vụ máy bay Mỹ ném bom lầm xuống tòa đại sứ Trung Quốc tại Belgrade năm 1999.

Trong lãnh vực quân sự, Trung Quốc lần nữa đóng vai trò yểm trợ tích cực như đã từng làm đối với chế độ Pol Pot. Từ sau cuộc đảo chánh của Hun Sen năm 1997, Trung Quốc đã gởi các trang bị quân sự cho cánh Hun Sen, xây dựng các doanh trại quân đội, sửa chữa phi trường Kampong Chhnang, hàng năm đưa 40 sĩ quan trong quân đội Campuchia sang Trung Quốc huấn luyện. Năm 2011, Trung Quốc cho Campuchia vay 195 triệu đô la để mua một số lượng máy bay trực thăng không được tiết lộ của Trung Quốc. Mới đây, 18 tháng Tám 2012, Trung Quốc viện trợ quân sự cho Campuchia thêm 19 triệu đô la và sẽ giúp xây dựng các bệnh viện quân đội, trung tâm huấn luyện cho đạo quân 140 ngàn của Hun Sen.

Trong hai tháng qua, nhiều người Việt phê bình Hun Sen và lãnh đạo hai nước láng giềng hữu nghị thân thiết Campuchia và Lào, có lịch sử gắn bó từ thời đảng CS Đông Dương, đã bí mật bắt tay Trung Quốc. Thật ra, không có chỗ cho các yếu tố đạo đức, ơn nghĩa trong bàn cờ chính trị. Hơn ai hết Hun Sen biết chính bản thân y trước đây khi được đặt vào chức Bộ trưởng Ngoại giao ở tuổi 27 cũng chỉ là con cờ chính trị của CSVN mà thôi. Thời thế đã đổi thay và con người thay đổi theo thời thế là chuyện bình thường.

Nhiều nhà phân tích cho rằng Campuchia nên giữ vai trò độc lập trong xung đột Việt Trung để nhận được sự ủng hộ từ cả hai bên nhưng đó chỉ là lý thuyết, lịch sử và thực tế kinh tế chính trị cho thấy, Campuchia phải chọn CSTQ và chia tay với CSVN. Đi với Việt Nam, Hun Sen không được gì trong khi đi với Trung Quốc Hun Sen có lợi cho cả cá nhân lẫn đất nước của y. Việt Nam không thể cạnh tranh nổi với Campuchia và Bangladesh về sản phẩm tiêu dùng loại rẻ tiền nói chi là chuyện tranh đua với Trung Quốc để viện trợ cho Campuchia.

Đối với nội bộ Campuchia, càng đóng vai trò độc lập với Việt Nam bao nhiêu, Hun Sen, người vẫn còn bị phe đối lập tại Campuchia tố cáo là bù nhìn Việt Nam, sẽ càng được sự ủng hộ của nhân dân Campuchia bấy nhiêu. Thế hệ Campuchia được CSVN cứu sống năm 1979 đã già và nhiều trong số họ đã chết. Thế hệ trẻ lớn lên chỉ biết đến Việt Nam là kẻ thù truyền thống của dân tộc Khmer.

Trong diễn văn kỷ lục dài trên 5 giờ trước quốc hội vào đầu tháng 8, 2012, Hun Sen cứng rắn cam kết “Thật ra, tuy nhiên, biên giới đường biển giữa Campuchia và Việt Nam vẫn chưa xác định và không một giọt nước nào của nguồn hải lưu đã bị mất về tay Việt Nam”. Các lãnh tụ đối lập trong quốc hội Campuchia từ nhiều năm nay liên tục tố cáo Việt Nam cướp đoạt đất đai trong đó có cả đảo Phú Quốc và vùng hạ lưu sông Cửu Long nơi có dân Khmer Krom đang sống. Khẩu hiệu chống Việt Nam cướp đất đầy tính khích động nhưng lại rất thu hút cử tri trong các mùa bầu cử. Sự cứng rắn đối với Việt Nam của Hun Sen đáp ứng “nguyện vọng” nhân dân nhằm binh vực tính chính danh của chế độ và tiếp tục là hội viên của “câu lạc bộ 10 ngàn” lâu hơn nữa.

Hun Sen tham nhũng

Vi trùng tham nhũng sinh sản rất nhanh trong các chế độ độc tài, nơi quyền lực tập trung trong tay một nhóm nhỏ người nắm quyền cai trị. Tham nhũng là một trong những căn bịnh đang đè nặng lên xã hội Campuchia và gia đình bị tố cáo tham nhũng nhiều nhất là Hun Sen. Mặc dù chỉ làm việc cho chính phủ trong suốt hơn 30 năm, gia đình y có một đời sống sung túc hơn bất cứ người dân Campuchia nào.

Cũng theo lời của luật sư Brad Adams thuộc tổ chức Human Rights Watch, mười năm trước, một viên chức Bộ ngoại giao Mỹ đã tiết lộ cho ông biết tài sản của Hun Sen được ước lượng vào khoảng 500 triệu đô la. Không ai biết chính xác giá trị bất động sản và dự trữ đô la, vàng bạc của Hun Sen và gia đình tại các ngân hàng ngoại quốc hiện nay là bao nhiêu. Phản ứng trước những lời tố cáo tham nhũng, Hun Sen cho báo chí biết y và gia đình chỉ sống bằng đồng lương Thủ tướng 1,150 đô la mỗi tháng. Tuy nhiên không một nhà phân tích nào tin vào con số không thể nào đúng với thực tế này.

Không có CSVN, Hun Sen không chỉ mù một mắt mà đã mồ hoang mã lạnh từ lâu rồi, nhưng với bản chất bạo động, háo danh, tham vọng quyền lực sẳn có người của cựu Khmer Đỏ, Hun Sen rất dễ dàng bị Trung Quốc khích động và mua chuộc. Lãnh đạo CSTQ thừa tiền bạc và cũng thừa kinh nghiệm làm ăn với các lãnh đạo độc tài. Cả một đám lãnh đạo châu Phi xa xôi và đắt tiền mà Trung Quốc còn mua chuộc được dễ dàng sá gì một Hun Sen hay một Choummaly Sayasone rẻ mạt ở sát bên nhà.

Chu kỳ thù hận Việt-Trung-Miên

Và tất cả những oan nghiệt đó, dùng chữ của Hun Sen trong luận án tiến sĩ chính trị của y, chỉ vì cùng “từ một bào thai” CS. Lịch sử hiện đại của ba nước bị trói chặt bởi sợi xích oan nghiệt CS. Thật vậy, ý thức hệ CS là nguyên nhân sâu xa cho tất cả đau thương thảm khốc mà người dân vô tội trong ba quốc gia Việt, Trung, Campuchia đã chịu đựng. Cách mạng văn hóa ở Trung Quốc, Cải cách ruộng đất ở Việt Nam, Năm số không (Year Zero) ở Campuchia đều là sản phẩm của hệ tư tưởng Mác Lê Mao.

Chủ nghĩa Cộng Sản đã tàn trên phần lớn trái đất nhưng tại ba nước Việt, Trung, Campuchia bóng ma Cộng Sản vẫn còn ám ảnh thường xuyên trên số phận con người. Ngày nào đảng CS còn cai trị hay có ảnh hưởng lớn, ba nước Việt, Trung, Miên lại sẽ đi vòng theo một chu kỳ thù địch, bắt đầu từ chỗ nợ máu xương và chấm dứt ở chỗ thanh toán nhau bằng xương máu.

Trung Quốc có tranh chấp biên giới với gần 20 quốc gia, lớn như Ấn Độ và nhỏ như Bhutan, nhưng chỉ có Việt Nam là hệ lụy nặng nề. Campuchia cũng tranh chấp biên giới với Thái Lan và thậm chí mới pháo kích vào đất nhau nhưng chỉ xung đột với Việt Nam là người ta hình dung ngay đến một viễn ảnh vô cùng thảm khốc.

Tại sao?

Chỉ vì cả ba nhánh sông này đều phát xuất từ một nguồn CS. Những người như Hồ Chí Minh, Trần Phú, Norodom Sihanouk, Heng Samrin, Pol Pot, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Phạm Văn Đồng, Đặng Tiểu Bình, Hoa Quốc Phong, Lý Tiên Niệm đã xác lạnh từ lâu nhưng tên tuổi họ vẫn được nhắc đi nhắc lại trong lịch sử ba nước như những oan hồn còn nặng nợ trần gian.

Thật vô cùng phi lý khi những đứa bé Campuchia sinh ra ở Nam Vang, đứa bé Việt Nam sinh ra ở Hà Nội hôm nay lại phải gánh chịu oan khiên từ thời đảng CS Đông Dương. Và cũng thật buồn cười khi quan hệ giữa hai quốc gia không đặt căn bản trên luật pháp quốc tế mà bị chi phối bởi bốn câu thơ “Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai, láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện” đầy sáo ngữ, mỉa mai và phản thực tế.

Việt Nam chưa bao giờ bị cô lập hơn hôm nay. Trong giai đoạn xung đột biên giới Việt Miên 1977-1979, ít ra còn có phe Liên Xô ủng hộ, ngày nay một mình trên hoang đảo, chung quanh chẳng còn ai và ảnh hưởng mỗi ngày thêm hẹp. Giới lãnh đạo đảng CSVN chẳng những biết rõ mà còn là đồng tác giả của thảm trạng Việt-Trung-Miên. Trước năm 1975, CSVN đã góp phần nuôi dưỡng tên đồ tể Pol Pot này. Năm 1965, Pol Pot đã từng đi bộ dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội để tham khảo Lê Duẩn về chiến lược chiếm Campuchia. Tháng Bảy năm 1975, Lê Duẩn và Lê Đức Thọ là hai trong số những quốc khách đầu tiên chính thức viếng thăm nước Campuchia Dân Chủ.

Suốt hơn 30 năm, nhân dân Việt Nam phải chịu đựng từ thảm họa này sang thảm họa khác như một chu kỳ lập đi rồi lập lại nhưng giới lãnh đạo Đảng không có một sách lược cụ thể, dứt khoát nào để đưa Việt Nam ra khỏi vòng bế tắc. Lý do đơn giản chỉ vì việc duy trì quyền lực và quyền lợi của giới lãnh đạo đảng được xem là một ưu tiên hàng đầu, trên cả chủ quyền đất nước và tương lai dân tộc.

Một người có ý thức nào cũng biết, cách duy nhất để thoát ra khỏi chu kỳ máu xương thù hận Việt–Trung-Miên là Việt Nam trước hết phải thoát ra khỏi bóng tối của chủ nghĩa Cộng Sản độc tài bước ra phía ánh sáng của thời đại tự do dân chủ.

Chỉ khi nào Việt Nam đứng dưới bầu trời tự do dân chủ giới lãnh đạo CSTQ mới không có quyền nghĩ những đại diện của quốc gia Việt Nam không Cộng Sản kia là “đám côn đồ”.

Chỉ khi nào Việt Nam đứng dưới bầu trời tự do dân chủ, Hun Sen cùng đảng Dân chủ Nhân dân của ông ta mới không còn nghi ngờ những đại diện của quốc gia Việt Nam không CS thật ra chỉ là những tên cướp nước giả nhân giả nghĩa.

Tất cả sẽ đều bình đẳng trước Hiến chương Liên Hiệp Quốc và các công ước quốc tế mà ba bên đã ký kết. Ân oán nợ nần giữa các đảng CS không có liên hệ gì đến dân tộc Việt Nam. Những khẩu hiệu có tính tuyên truyền như “16 chữ vàng”, “tình hữu nghị” sẽ bị gạch bỏ theo chế độ Cộng Sản đã sáng tác ra chúng.

Trong cuộc đàm phán đa phương hay ngay cả song phương với Trung Quốc và Campuchia, các đại diện của một nước Việt Nam dân chủ có thể thắng, có thể huề và cũng có thể thua, nhưng dù thắng, huề hay thua đều dựa trên cơ sở luật quốc tế và luôn hành xử xứng đáng với tư cách của một cấp lãnh đạo chính danh, thay mặt cho một nước Việt Nam dân chủ, độc lập, chủ quyền, và sẽ được sự ủng hộ của đại đa số con người yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới.

Con đường giành lại Hoàng Sa và bảo vệ Trường Sa là một con đường dài, gian nan, đầy gai góc, bị chi phối bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Nhưng nếu không đi sẽ không bao giờ đến. Cho dù lâu dài và gian nan cũng phải bắt đầu và điểm bắt đầu mà một người Việt Nam yêu nước nào cũng có thể làm được, đó là tích cực đóng góp vào tiến trình dân chủ hóa Việt Nam. Trần Trung Đạo —————————————– Tham khảo:

· Extraordinary Chambers in the Courts of Cambodia, the United Nations. · Frank Dikotter, Mao’s Great Famine, Walker & Company 2010 · Ian Storey, China’s Tightening Relationship with Cambodia, The Jamestown Foundation. · Behind the Bamboo Curtain: China, Vietnam, and the World beyond Asia, edited by Priscilla Roberts, tr. 260, 393-394, Stanford University Press 2007. · Ezra F. Vogel, Deng Xiaoping and the Transformation of China, Harvard University/Belknap Press 2010, tr. 283. · Philip Short, Pol Pot: Anatomy of a Nightmare, Macmillan, 2006, tr. 389 · Francis Deron, Several Improper Connections in Matters of Massacre: China, Cambodia, Indonesia, Monde Chinois, 2008. · Xiaobing Li, China at War: An Encyclopedia, ABC-CLIO LLC, 2012 · Reuter, China admits 320,000 troops fought in Vietnam, May 16 1989 · Daniel Southerland, Uncounted Millions: Mass Death in Mao’s China, Washington Post, July 17, 1994 · Brad Adams, 10,000 Days of Hun Sen, The New York Times, May 31, 2012 · Russell D. Howard, The Chinese People’s Liberation Army: “Short Arms and Slow Legs”, USAF Institute for National Security Studies 1999 · Cambodian Genocide Program, Yale University · Vũ Cao Đàm, Bài học đáng giá từ Luận án Tiến sĩ của Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Bauxite Việt Nam, 14-8-2012 · Wikipedia “Chiến dịch phản công biên giới Tây-Nam Việt Nam” · Wikipedia “Đặng Tiểu Bình” · Wikipedia “Pol Pot”

*****

Nguồn: http://www.trantrungdao.com/?p=1822

Nghị quyết ngừng giao thương với Việt Nam

Nguồn tin của tờ báo Trẻ ở Texas cho biết rằng cộng đồng người Việt ở New Orleans vừa vận động với hội đồng thành phố ra nghị quyết ngừng giao thương với Việt Nam cho đến khi nào tình hình nhân quyền được cải thiện.

Nếu mô hình này nhân rộng như kiểu nghị quyết vinh danh cờ vàng trên các thành phố tiểu bang thị trấn của Hoa Kỳ thì sẽ trở thành những cây gậy đánh vào những củ cà rốt mà quan hệ Mỹ Việt đang cố gắng vui bồi (ít nhất về mặt kinh tế).

Đây có thể là sáng kiến mang tính cộng đồng một cách thông minh gây tác động lương tri về mặt dân chủ nhân quyền cho Việt Nam. Nếu thành phong trào thì không thể nào cản trở được động lực lan truyền khắp các địa phương có đông người gốc Việt cư ngụ - yêu cầu các thành phố tiểu bang ra nghị quyết nhận thức về dân chủ nhân quyền cho Việt Nam bằng biện pháp khống chế, giới hạn các quan hệ giao thương.

Ngừng giao thương với Việt Nam ở New Orleans tuy còn đang ở dạng nghị quyết không có tính ràng buộc như luật lệ nhưng trong nhiều điều kiện ngẫu nhiên nó sẽ có sức khống chế các hoạt động doanh nghiệp với Việt Nam một cách đau đầu cho giới thương nhân.

Ví dụ, có một công ty sản xuất muốn mở văn phòng hay nhà kho chứa hàng ở thành phố này liên hệ với cơ sở ở Việt Nam. Trong trường hợp có nghị quyết này trước mắt, thì doanh nghiệp rất khó xin được môn bài (zoning certificate) trong khu vực. New Orleans là thành phố cảng biển, có nhiều nguyên liệu cá tôm, nông sản rất thuận lợi cho các điều kiện giao thương. Phía Việt Nam khinh suất thì không chừng nghi quyết lan tỏa ra rồi thì hết đỡ.

Cờ vàng chỉ có giá trị tinh thần cho nên ban kiều vận có thua bỏ cuộc cũng không sao. Giao thương thì là ảnh hưởng đến giá trị kinh tế, chuyển tiền, kiều hối… Rúng động chứ! Các tiệm chuyển tiền về Việt Nam ở New Orleans chắc là bị đụng chạm nhiều nhất.

Ngoài ra, nếu như phát huy hết tác dụng thì ghị quyết này sẽ có sức khống chế doanh nghiệp, giảm sức cạnh tranh cho các công ty Hoa Kỳ hay Việt Nam rất nhiều. Họ có thể phải kiếm các thành phố khác, có hội đồng nghị viên thành phố thân thiện hơn không thì gây nên tranh cãi rất phiền phức, tốn kém về mặt kim tiền rất đắt giá.

Theo anh Đinh Yên Thảo của tờ báo Trẻ thì khái niệm mậu dịch và giao thương có sự khác biệt. Tuy chinh quyền liên bang trao đổi mậu dịch tổng thể với Việt Nam nhưng ở một đơn vị thành phố, tiểu bang khi có chính sách không khuyến khích giao thương, đặt ra các điều luật riêng biệt thì cũng là một áp lực rất lớn.

Nói về dùng áp lực giao thương để thúc đẩy về nhân quyền thì nhiều người đã sáng ý nhưng không thể thực hiện được vì lý luận ba không (không đầu tư, không du lịch, không chuyển tiền) này bị xem là không có đạo lý cho người dân trong nước. Do đó khi ý kiến này đưa ra thường bị xà đùa và bị chỉ trích. Tuy nhiên, ở một góc cạnh khác, ngay cả người trong nước đều coi như là biện pháp khống chế nhà cầm quyền Việt Nam hiệu quả nhất.

"Ngừng giao thương thì tư bản đỏ chết trước. Bọn em ở dưới thấp đâu có can hệ gì!" Một bạn xin dấu tên cho biết ý kiến.

"Cứ phải nhân rộng mô hình, vây ép tứ bề". Bạn Hu Zi bình luận trên facebook

Gần đây nhà cầm quyền Việt Nam bắt bớ các nhà đấu tranh dân chủ một cách quá trắng trợn khiến cho người dân trong nước không còn mang cảm giác "chúng sanh cộng mệnh" với chế độ cầm quyền dù chỉ về mặt kinh tế.

Kêu gọi Mỹ ngừng giao thương tự dưng trong đầu họ đã hiện ra hình ảnh nhà cầm quyền Việt Nam đang bị trả đũa hơn là phải lo lắng cho quan hệ Việt Mỹ không được vun bồi.

Nếu lúc trước người Việt hải ngoại kêu gọi không bang giao, cấm vận kinh tế đối với Việt Nam thì tạo nên một tâm lý mâu thuẫn lợi ích với người trong nước. Nhưng nay thì tấm lý đó có phần xê dịch vì sự phẫn nộ về chính sách kinh tế không đồng đều đồng thời những việc bắt bớ giam cầm các nhà đấu tranh dân chủ như Điếu Cày, Tạ Phong Tần quá đỗi thương tâm.

Ngưng giao thương không có nghĩa là nguy hại đến nông dân như những chiêu bài tâm lý mũi lòng trước đây mà nhà cầm quyền Việt Nam thường rêu rao "thế lực thù địch" xuất chiêu ác độc. Ngưng giao thương hiện nay chỉ có công hiệu làm ảnh hưởng đến giai cấp tư bản đỏ Việt Nam, làm ho giãy chết trước.

Do đó nhân rộng phong trào này thì không có gì không hợp với tâm lý quần chúng hiện nay.

http://baotreonline.com/Tin-tuc/Cong-dong-day-do/hoi-dong-thanh-pho-new-orleans-ra-nghi-quyet-ngung-giao-thuong-voi-viet-nam.html

Bà con An Giang khiếu kiện tập thể trên đường Võ Thị Sáu

Thanh Trúc, phóng viên RFA, Bangkok

2012-08-21

Sáng nay hơn năm chục hộ dân từ tỉnh An Giang kéo nhau lên Phòng Thanh Tra Chính Phủ số 210 đường Võ Thị Sáu thành phố Hồ Chí Minh, để khiếu kiện tập thể về vụ đất canh tác của họ bị trưng thu từ năm 2008 mà không được giải quyết

Courtesy Vietcatholic – Hàng trăm dân oan ở Hố Nai, tỉnh Đồng Nai đã kéo về một trụ sở thanh tra chính phủ ở đường Võ Thị Sáu, Quận 3, Tp. HCM năm 2009 (ảnh minh hoạ)

Huyện thì bỏ lơ, tỉnh thì không tiếp

Đó là một số hộ dân tại ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ An huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, có đất bị trưng thu đã bốn năm nay.

Vì thế sáng nay các hộ dân này kéo nhau lên Phòng Thanh Tra Chính Phủ trên đường Võ Thị Sáu, thành phố Hồ Chí Minh, gọi là để tiếp tục khiếu nại lên cấp cao hơn.

Tuy nhiên không một ai ở phòng tiếp dân ra nhận đơn hay nói chuyện với bà con. Ông Điền, đại diện nhóm khiếu kiện đất đai mấy chục người này, cho biết:

Dân bức xúc quá mới đem đơn đến ủy ban tỉnh thì ủy ban tỉnh cũng ngó lơ, rồi hôm nay dân kéo lên văn phòng chính phủ tại Võ Thị Sáu nhưng mà văn phòng chính phủ đuổi xô và không cho dân vào, biểu về tỉnh để tỉnh giải quyết. Mà về tỉnh thì tỉnh không giải quyết. Chỉ biết đứng đây chứ đâu biết làm sao nữa giờ, đi vô trong đó thì gác cổng đuổi, đưa lực lượng công an tới để trán áp là không cho vô.

Vụ khiếu kiện kéo dài bốn năm mà không được giải quyết thỏa đáng vì nhiều lý do mà dân nói là không công minh về phía chính quyền địa phương.

Ngày 14-3-2012, Dân Oan từ các Tỉnh Tiền Giang kéo đến văn phòng chính phủ đại diện phía Nam, 210 Võ Thị Sáu - Sài Gòn, khiếu kiện nhà đất . (ảnh minh họa)
Ngày 14-3-2012, Dân Oan từ các Tỉnh Tiền Giang kéo đến văn phòng chính phủ đại diện phía Nam, 210 Võ Thị Sáu – Sài Gòn, khiếu kiện nhà đất . (ảnh minh họa)

Thay mặt bà con đứng trước đường Võ Thị Sáu, ông Điền trình bày chi tiết sự việc là bốn năm trước, ngày 20 tháng Mười Một năm 2008, Ủy Ban huyện Chợ Mới ra quyết định thu hồi đất của một số hộ dân ở ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ An, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Thế nhưng đến giữa năm 2009 người dân mới nhận được quyết định thu hồi và hỗ trợ đền bù. Điều này có nghĩa là từ ngày ra quyết định cho đến sáu tháng sau dân mới nhận được, trong lúc huyện đã áp dụng chế độ đến bù sai trái:

Ngày 1 tháng Một năm 2009 là quyết định số 45 của ủy ban nhân dân tỉnh có hiệu lực thi hành nhưng mà huyện vẫn sử dụng quyết định số 3500 mà tính đến ngày 1 tháng Một 2009 là đã hết hiệu lực thi hành.

Quá bức xúc trước mức đền bù và hỗ trợ quá thấp rồi dân mới khiếu nại. Đơn khiếu nại thì huyện bỏ lơ không giải quyết và tỉnh cũng bỏ lơ không giải quyết.

Đến năm 2010, khi nghị định 69 của chính phủ có hiệu lực thi hành thì chính quyền địa phương huyện Chợ Mới lại mời các hộ dân lên để báo là sẽ đến bù và hỗ trợ dân có đất bị trưng thu theo quyết định số 45 của tỉnh:

Mà trong khi đó nếu dân nhận tiền thì tiền đền bù hỗ trợ đó không mua được đất mới để tái định cư và tái sản xuất. Từ năm 2008 đến nay là dân chúng tôi khốn đốn vì không được sản xuất tại vì một hai ngày là ủy ban huyện đưa ra thông báo là bà con không nên xuống giống không nên canh tác trên những mảnh đất đó.

Khốn khổ vì 4 năm vườn tược bỏ không

Vì không còn đất canh tác nên nhiều hộ nông dân ở ấp Mỹ Lợi xã Mỹ An huyện Chợ Mới bị mất kế sinh nhai, nhiều người phải đi tìm việc ở những nơi khác. Gần đây nhất, vẫn lời ông Điền thuật lại, ủy ban huyện Chợ Mới lại loan báo là không thu hồi đất nữa. Ngay khi đó, nông dân đề nghị là nếu không thu hồi thì phải ra một quyết định hủy bỏ việc trưng thu đất để dân có thể canh tác trở lại:

Nhưng mà đến nay thì dân cũng không nhận được quyết định và cũng không biết hướng cái giải quyết của chính quyền ở huyện tỉnh ra làm sao. Vườn tược thu nhập của dân mỗi một người như vậy là vào khoảng một ngàn mét vuông đất thì thu nhập theo chuyên canh là sáu bảy mươi triệu một năm lận. Nhưng mà bốn năm nay là dân không được canh tác trên mảnh đất của mình thành vườn tược nó hư hết rồi. Bây giờ dân nằm trong tình trạng khốn đốn, không biết làm sao mới đến nhờ cơ quan chính phủ mà cơ quan chính phủ đuổi xô thì cũng không biết sao nữa.

Những người dân An Giang đi khiếu kiện tập thể trên đường Võ Thị Sáu hôm nay nói rằng việc làm của họ là chính đáng và ôn hòa, thì cớ sao lại không được đáp ứng:

Tại vì dân đâu biết chạy đi đâu, chỉ thấy là những vị lãnh đạo của chính phủ là lên truyền hình, TV, những phương tiện thông tin đại chúng, rồi nói sẽ giải quyết thỏa đáng cho dân. Thành ra dân thấy như vậy, tin tưởng nơi chính phủ là đi lên chính phủ mà chính phủ vẫn xô đuổi. Thiết nghĩ không biết là có cái thế lực gì đó để bao che cho cấp dưới để làm vậy không.

Trên đường dây viễn liên nối về xã Mỹ An, chủ tịch xã Mỹ An Nguyễn Thị Kim Trúc, trả lời vắn tắt là muốn gì thì về xã Mỹ An gặp bà rồi lập tức cúp máy.

*****

Nguồn:

http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/farm-comp-confi-asset-08212012071404.html

Ngô Nhân Dụng: Bỏ Cộng cứu nước

Bài Giải Cộng Nhi Thoát của Hà Sĩ Phu mới được công bố có thể gửi ngay cho các đảng viên cộng sản Việt Nam để giúp họ tự thoát khỏi những sai lầm, những điều mê hoặc được cố kết từ lâu nên rất khó tự mình cởi bỏ.

Ðây là những lời tâm huyết, lý luận chặt chẽ, nhắm vào lương tri và lương tâm của những ai còn đang suy nghĩ, lo lắng cho tương lai dân tộc.

Giải là cởi trói. Có cởi bỏ chủ nghĩa Cộng sản thì mới thoát được. Không phải chỉ giải thoát cho các cá nhân các đảng viên cộng sản; mà là cứu dân tộc thoát khỏi mối đe dọa của chính quyền Trung Quốc. Chính quyền đó do một đảng cộng sản cầm đầu nên chúng ta gọi là Trung Cộng. Thời chiến tranh, miền Nam đã đưa ra khẩu hiệu “Diệt Cộng cứu nước.” Bây giờ, mục tiêu của dân tộc Việt Nam không phải là tiêu diệt những người theo cộng sản. Dân Việt Nam chỉ cần xóa bỏ một chế độ độc tài tham nhũng đang nhân danh chủ nghĩa Cộng sản để tiếp tục đàn áp dân trong khi nhu nhược, hèn yếu trước áp lực xâm lấn của Trung Cộng. Muốn xóa bỏ chế độ đó, trước hết phải giúp cho chính các đảng viên cộng sản tự cởi trói lấy, tự giải mê cho họ.

Bài nhận định của Hà Sĩ Phu có mục đích đó. Ngay từ đầu ông đã nói đến lá thư của nhà văn Phạm Ðình Trọng gửi cho những đảng viên vẫn còn lưu luyến với Chủ nghĩa Cộng sản. Phạm Ðình Trọng muốn thuyết phục các đồng chí cũ phải biết một sự thật, là: “Chủ nghĩa Cộng sản mà học thuyết Mác-Lê vạch đường là một chủ nghĩa sai lầm, chỉ gây ra tội lỗi với đất nước, không thể sửa chữa mà chỉ có cách duy nhất là xóa bỏ tận gốc.” Rất nhiều người đã nêu ra điều đó trong không biết bao nhiêu bài viết từ lâu rồi. Hà Sĩ Phu đã làm một bản tổng kết các ý kiến được viết từ lâu nay, và ông nhấn mạnh đến một nhu cầu cần thiết của đất nước ngay bây giờ. Là phải xóa bỏ ngay cái chế độ đang còn tôn thờ Chủ nghĩa Cộng sản. Vì chỉ xóa bỏ chế độ tham tàn đó, mới giải thoát được dân tộc qua tình trạng nguy hiểm trước mối đe dọa của đế quốc Trung Cộng.

Chắc chắn quý vị phải đọc kỹ bài viết của Hà Sĩ Phu, và gửi cho tất cả các đảng viên cộng sản mà quý vị biết, để giúp họ tự cởi trói. Không phải chỉ vì muốn giúp họ, mà vì tương lai dân tộc. Hà Sĩ Phu là người đầu tiên ở nước ta đã dùng ngòi bút sắc bén trình bày những sai lầm của chủ nghĩa Mác xít; trước khi các chính quyền cộng sản ở Châu Âu sụp đổ. Từ đó, trong ba chục năm nay, ông đã bị đảng Cộng sản Việt Nam bỏ tù, quản thúc; đời sống hàng ngày của ông và gia đình luôn luôn bị đặt dưới các thủ đoạn sách nhiễu hăm dọa của guồng máy công an. Bài viết mới của ông sẽ là cái đinh cuối cùng đóng trên chiếc quan tài của Chủ nghĩa Cộng sản và chế độ cộng sản tại Việt Nam. Ông báo động: “Nay quân xâm lược đã riễu binh đến sát cửa nhà, thậm chí vào rất sâu trong nội tình, nội địa.” Vì thế phải giải Cộng, vì theo ông “Chừng nào còn giữ chế độ gọi là ‘Xã hội chủ nghĩa’ bên cạnh anh Cộng sản khổng lồ Trung Quốc, thì họa mất nước là thường trực.” Hà Sĩ Phu đã trình bày đầy đủ, rõ ràng, rành mạch, những lý luận vững vàng để giúp người đọc thấy hai sự thật trên. Ngày xưa Phùng Quán đã thề: “Tôi sẽ dùng dao viết văn trên đá.” Với bài tham luận này, Hà Sĩ Phu đã viết văn lên đá. Những đảng viên cộng sản còn giữ được lòng yêu nước, mà không bị trói chặt về địa vị, quyền lợi riêng, không bị che mắt vì ngã mạn hẹp hòi, đọc kỹ bài này xong sẽ phải quyết định ra khỏi đảng. Họ có thể làm nên lịch sử, nếu gây được một phong trào đảng viên bỏ đảng. Trong ba triệu đảng viên chỉ cần một trăm người bắt đầu công khai bỏ đảng thì sẽ lôi kéo hàng ngàn người khác ngay. Ngàn người này sẽ khích lệ nhiều ngàn người khác dứt khoát. Khi mỗi thành phố có một trăm, hai trăm người đứng ra đốt, xé thẻ đảng trước công chúng, thì nhân dân sẽ hết sợ công an. Người dân sẽ được giải thoát.

Hà Sĩ Phu vạch rõ tình trạng hiện nay, từ trên xuống dưới các đảng viên cộng sản đang đóng tuồng giả dối với nhau. Trên thì biết cả cái chủ nghĩa, tư tưởng của đảng là rỗng tuếch, nhưng cứ phải bám lấy để giữ quyền hành. Dưới thì biết bên trên đóng kịch nhưng cũng giả bộ tin để được chia chác lợi lộc nhờ tham nhũng. Giống trong truyện cổ tích kể chuyện ông vua không mặc quần mà các tay chân bộ hạ vẫn xun xoe nịnh vua mang cái quần đẹp quá! Hai bên cùng nói dối vì cần cấu kết với nhau để bám lấy quyền lợi, địa vị. Chúng đàn áp tất cả các ý kiến và hành vi phản kháng dù chỉ phản đối hết sức ôn hòa. Hà Sĩ Phu nói thẳng tình trạng “Uy tín không còn, chính danh không còn, ngai vàng còn giữ được nhờ hết vào đội KIÊU BINH khổng lồ, rải khắp hang cùng ngõ hẻm.” Ông nói sự thật, “Kiêu binh vừa gắn chặt với Ðảng của xã hội đỏ lại vừa công khai đi sóng đôi với côn đồ của xã hội đen trước thanh thiên bạch nhật…”

Người Việt Nam nào có mắt đều phải thấy mình đang phải sống trong tình cảnh đó. Nhưng người dân cũng không dám nói sự thật “Ông Vua không mặc quần.” Người dân Việt Nam cũng biết, như Hà Sĩ Phu viết: “Trò xiếc dối trá lẫn nhau, cố giữ bộ mặt đúng quy cách ấy không thể kéo dài mãi. Phía vua quan đã ‘khỏa thân tới số’ thì dân chúng còn cung kính giả vờ sao được?” Cho nên trên các blog người ta đã gọi thẳng Hồ Chí Minh bằng cái tên “Ku Nghệ!”

Trong bài mới công bố của Hà Sĩ Phu, phần có trọng lượng nhất vạch rõ âm mưu thôn tính nước Việt Nam của đảng Cộng sản Trung Quốc. Âm mưu này được thực hiện từ năm 1950, khi Hồ Chí Minh cầu viện Trung Cộng; Hà Sĩ Phu phân tích: “Sự xuất hiện trào lưu Quốc tế Cộng sản hoang tưởng đã cung cấp cho Trung Quốc một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng những đặc trưng của Cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm màn ‘quốc tế đại đồng’ che mắt, nhìn cái bẫy thành chốn ruột thịt nương thân.” Ðến nay, Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục tự tìm chui vào bẫy, “cả những 16 chữ vàng, quan hệ 4 tốt, và cuộc thi ca khúc Việt-Trung và lời kêu gọi tri ân kẻ xâm lược cũng trở nên trơ trẽn, hèn hạ không thể chấp nhận.” Còn phía Trung Cộng, họ hành động ngày càng trắng trợn, như thể họ công nhiên thách thức: “Ông vô lý, ông tàn bạo, ông ngang ngược thế đấy, ông cứ làm trái ý dân, cứ làm trái công pháp quốc tế thế đấy, làm gì được ông?”

Xưa nay Cộng sản mạnh vì họ dối trá giỏi. Những lời dối trá còn di họa tới ngày nay; cần phải giúp chính các đảng viên ít hiểu biết thấy sự thật. Nhiều luận điệu cũ rích vẫn ám ảnh họ, cần được cởi trói. Như Hà Sĩ Phu nêu ra, một luận điệu quen thuộc: “Ðảng không ưu việt sao đánh được Pháp, được Mỹ?” Và ông chỉ rõ: Chủ nghĩa Cộng sản vào Việt Nam được đội lốt dưới chiêu bài yêu nước. Sức mạnh là do người Việt được kích thích bằng lòng yêu nước, không biết mình đang hy sinh cho một chủ nghĩa quốc tế, bất cần quốc gia. Ðảng Cộng sản biết lợi dụng lòng yêu nước của dân Việt Nam để cướp lấy chính quyền, thực hiện giấc mơ hoang đường của Marx, Lenin, vì bắt toàn dân Việt Nam thế rơi vào cái bẫy của đế quốc Mao Trạch Ðông.

Một thứ luận điệu tương tự, là trong thời 1945 đảng Cộng sản phải cướp chính quyền vì “lúc đó ai là người lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn đó, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi kẻ thù xâm lược và xây dựng đất nước tiến bộ như ngày hôm nay?”

Sự thật là: Năm 1945 Việt Nam đã có một chính phủ, mặc dù do người Nhật giúp dựng lên nhưng toàn những người yêu nước và có khả năng giúp nước. Trước khi Nhật bại trận, đã có rất nhiều đảng phái “quốc gia” tức là không theo chủ nghĩa cộng sản quốc tế, cùng đấu tranh giành độc lập, chống Nhật, chống Pháp. Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tìm cách ký kết thỏa hiệp với quân Pháp để tiêu diệt các đảng phái quốc gia, Việt Nam Quốc Dân Ðảng, Ðại Việt, Duy Dân, vân vân, lên tiếng tố cáo Hồ Chí Minh đi đêm với Pháp, với Tàu, cho nên bị đảng Cộng sản tìm mọi cách thủ tiêu. Trong những năm 1945-46, Hồ Chí Minh theo Ðệ Tam Quốc Tế nên đã giết những người yêu nước như Trương Tử Anh (Ðại Việt), Lý Ðông A (Duy Dân), Tạ Thu Thâu, Phan Văn Hùm, Trần Văn Thạch (Cộng Sản Ðệ Tứ), học giả Phạm Quỳnh, các nhà văn Khái Hưng, Nhượng Tống (Quốc Dân Ðảng), và biết bao nhiêu người yêu nước theo khuynh hướng“quốc gia” khác, trước khi phải chống Pháp vì không thỏa hiệp được. Mục đích của họ là chiếm “độc quyền” lãnh đạo nước Việt Nam để thực hiện chủ nghĩa cộng sản.

Một sự thật cần được vạch rõ là sau khi Ðại Chiến Thứ Hai chấm dứt, trên thế giới các dân tộc bị trị đều vùng lên. Tất cả cuối cùng đều giành được độc lập, mà không cần có đảng cộng sản nào cầm đầu cả. Chỉ có nước Việt Nam bất hạnh rơi vào tay cộng sản, mối họa đó kéo dài cho tới bây giờ.

Bây giờ ai còn nói đảng Cộng sản “xây dựng đất nước tiến bộ” thì đúng là đang chui đầu trong bùn đen không trông thấy gì cả! Cứ nhìn vào tình cảnh hiện nay ở nước Việt Nam mà so sánh với các nước Á Ðông khác thì biết. Các nước Phi Luật Tân, Indonesia, Thái Lan, Nam Hàn, Mã Lai, Ðài Loan, có dân nước nào nghèo nàn và chịu nhục nhã như nước mình hay không?

Tất cả những lời dối trá, mê hoặc như các luận điệu kể trên sẽ được giải mê khi bộ mặt thật của chế độ cộng sản bị phơi bày. Một trong những người đóng góp lớn cho công việc giải mê này trong gần 30 năm qua là Hà Sĩ Phu. Các bạn trẻ ở trong và ngoài nước có thể đọc bài viết mới của ông trong nhiều lần, mỗi lần một đoạn, mỗi lần lại thảo luận và nhờ những người lớn tuổi có hiểu biết giúp giải thích thêm cho rõ.

© Ngô Nhân Dụng

Nguồn: Người Việt