Thứ Hai, 7 tháng 12, 2009

Bác sỹ riêng của Mao (tiếp theo)

Chương 3

Bắc Kinh hoang tàn và tiêu điều. Sau tám năn Nhật chiếm đóng và bốn năm nội chiến, phố xá trở nên bẩn thỉu, những bức tường dày bao quanh Thành Nội bị lở từng mảng có chỗ đã bắt đầu sập. Các biển quảng cáo vui mắt và sặc sỡ cũng biến mất khỏi các cửa hiệu và quầy hàng, những quán sách thân thương của tôi ở Liu-li-chang đóng cửa im ỉm dường như lâu lắm rồi.
Dân tình xem ra nghèo đói, dung nhan không thấy sửa sang gì giống như chính bản thân thành phố. Đàn ông, đàn bà chỉ mặc những chiếc bộ quần áo ghi đá hoặc màu xám thường được khâu bằng tay từ những mảnh bao tải. Mỗi người đều có một đôi giày bằng vải buồm thô màu đen, mọi người trông ai cũng giống ai. Đàn ông xùm xụp mũ chăn cừu còn đàn bà thì tóc cắt ngắn. Tôi mặc quần áo đúng mốt, cà vạt, giày da, đầu tóc chải chuốt kiểu úc trông giống như người nước ngoài. Lý Liên mặc áo khoác màu sặc sỡ và giầy cao gót. Tóc của cô ta chải thành nếp tuyệt đẹp và nổi bật trong những người khác giống những bông hoa đỏ rực trên cánh đồng lúa mì vàng óng. Tôi rất nhanh chóng phải sắm ngay bộ đồng phục mà mấy ông cộng sản đã khuyên. Nhưng Lý Liên phải đặt may một bộ hợp với người cô ta.
Mẹ tôi thay đổi nhiều. Bà sung sướng khi chúng tôi quay về và cầu khẩn chúng tôi đừng bỏ nhà đi nữa. Tôi hứa ở lại với bà.
Dù nghèo, nhưng khí thế của dân Bắc Kinh sôi nổi. Khắp chốn nơi nơi những khuôn mặt tràn trề hạnh phúc nhìn vào tôi. Bắc Kinh được tự do và dân chúng chân thành chào mừng chính phủ cộng sản mới. Trong thành phố bao trùm bầu không khí thân thiện tưởng vào hạnh phúc tới gần. Chỉ một số ít người thân và họ hàng tôi cho rằng việc tôi trở về là sai lầm.
Anh tôi thu xếp cho tôi gặp Phó Liêm Chương để thảo luận vấn đề công việc của tôi.. Tôi đến nhà Phó. Ông sống trong toà nhà được chia cho bộ y tế. Toà nhà này nằm ở vùng Quảng Xương phía bắc trung tâm thương mại Vương Phú Thanh. Toà nhà này từng là nơi ở của hoàng tử Mãn Châu, sau đó một tướng Quốc dân đảng chiếm lấy dùng và cuối cùng, Phó Liêm Chương toạ lạc ở đây. Biệt thự này có kiểu cách làm tôi nghĩ tới ngôi nhà của chúng tôi, nhưng nó này rộng hơn, sang trọng và lộng lẫy hơn nhiều. Biệt thự có có 6 phòng tất cả đều quét màu nho xanh. Trong đó bố trí những vườn nhỏ phong cách Trung quốc truyền thống, có lối đi được lát gạch men.
Khi tôi đến, Phó Liêm Phương nửa ngồi nửa nằm trên trường kỷ làm bằng trúc. Ông dáng người cao, hơi gày. Dưới vầng trán cao, đôi mắt tinh ranh và diễn cảm của ông nhìn tôi. Ông chừng 50 tuổi, hơn tôi tới 26 tuổi. Do tôi còn trẻ nên ông xem có vẻ già hơn.
Khi tôi đến, Phó Liêm Phương cũng chẳng hề đứng dậy, mà chỉ chìa tay cho tôi bắt. Ông lắc lắc tay uể oải một cách xã giao. Do được tâng bốc nên tôi nghĩ mình phải được coi trọng, cho nên tôi đã mất mặt khi tiếp xúc với nhân vật cao cấp như vậy. Tôi đã bị ho lao mất mấy năm vì thế tôi không thể nói chuyện lâu với đồng chí được- ông ta nói chặn trước. Sau đó ông hỏi tôi tỷ mỉ về học hành và nghề nghiệp bác sĩ. Vừa nghĩ ngợi, ông nói tiếp:
- Vấn đề công việc của đồng chí đã được giải quyết. Sáng mai anh có mặt ở Cục theo dõi sức khoẻ.
Chính phủ mới vẫn hoàn toàn chưa thành hình, chức năng quyền lực điều hành tạm thời trao cho ủy ban quân quản thuộc đảng cộng sản Trung quốc. Cục theo dõi sức khoẻ trực thuộc ủy ban này.
Tại Cục theo dõi sức khoẻ tôi được tiếp đón nồng nhiệt. Một người cán bộ nói với tôi là ở đây còn thiếu bác sĩ điều trị và kể thêm anh tôi từng là sếp của anh ta.
Thứ trưởng báo cho chúng tôi là đồng chí sẽ trở thành các bộ của Cục chúng tôi – anh ta giải thích – Tất cả chúng tôi ở đây đều hoàn toàn tình nguyện. Lãnh đạo đảm bảo cho chúng tôi mọi thứ cần thiết: nhà cửa, chỗ làm việc quần áo và thậm chí cả giày dép nữa. Vì đồng chí sẽ đảm đương công việc bác sĩ trưởng điều trị, nên đồng chí sẽ nhận khẩu phần hạng hai, cao hơn chút ít so với nhân viên trung bình.
Hệ thống hoàn toàn tình nguyện nghĩa là tôi sẽ chẳng được nhận lương. Đảng cộng sản thi hành hai dạng trả công cho viên chức nhà nước. Ai tham gia cách mạng chưa lâu, bắt đầu làm cho đảng thì nhận lương bình thường. những người tham gia cách mạng lâu năm thì được cung cấp toàn phần. Những người tham gia tình nguyện nhận kiểu riêng. Tôi thuộc hạng tự nguyện đi theo cách mạng. Dù là tôi là người mới vào nhưng vãn được vinh dự thuộc hạng được nhà nước cho hưởng cung cấp toàn phần.
Nhưng tôi còn băn khoăn. Chi phí gia đình cũng không phải là nhỏ và giờ đây gánh nặng đè lên vai Lý Liên. Tôi còn phải nuôi mẹ, hai bà cô và bố mẹ vợ. Thật ra tôi cũng đã tích luỹ được vàng và đô la Mỹ, nhưng nếu không nhận được lương thì số tiền đó chẳng mấy chốc mà bay.
Chỉ khi gặp đồng chí Lắc tôi nhận được một số hướng dẫn về nhiệm vụ tương lai của mình. Đồng chí Lắc sẽ dẫn đồng chí tới chỗ làm việc tại Đại học tổng hợp công nhân – người ta nói cho tôi – bây giờ đồng chí cứ về nhà và thu xếp tất cả đồ dùng cần thiết. Chúng tôi sẽ cấp cho đồng chí thu xếp một tuần lễ tính từ hôm nay. Xe tải sẽ chở đồng chí đến chỗ làm. Đồng chí Lắc sẽ đi cùng đồng chí .
Thời gian gặp chẳng nêu rõ rằng, thậm chí chẳng ai hỏi tôi xem tôi có muốn làm ở chỗ mà họ đưa ra. Tôi đâm ra lúng túng, bởi vì tôi chưa bao giờ nghe đến tên trường đại học tổng hợp này. Dù là tôi là nhân viên nhận việc ở đó, nhưng tôi rất muốn trường đại học tổng hợp này phải có gì đó liên quan tới bệnh viện mà tôi mơ ước làm ở đo.
Ngoài ra, tôi hiểu rằng Cục theo dõi sức khoẻ cũng chẳng kiếm được việc cho Lý Liên. Người ta chỉ xếp vợ tôi tạm thời làm ở nhà trẻ cách Bắc Kinh 20 ki lô mét, nơi có viện đào tạo dự bị cho nhân viên y tế. Thật là giận khi khi mà người ta chẳng đánh giá khả năng và trình độ theo ưu điểm này. Chẳng lẽ lại đem so sánh công việc được giao với công việc của vợ tôi ở lãnh sự Anh bên Hồng Kông!
Lý Liên và tôi, có thể, ít gặp nhau ở nhà. Và tôi cay đắng nghĩ rằng tại sao mình lại không tặng Dương chiếc đồng hồ.
Chú về chưa lâu và chưa thể hoàn toàn hiểu cái gì đang xảy ra ở đất nước – anh tôi an ủi – ở đây không phải người chọn việc mà là việc chọn người. Điều này nghĩa là phục vụ sự nghiệp của đảng. Về lương, chú vẫn có thể sử dụng tiền tiết kiệm của mình. Dần dà thì mọi thứ sẽ đâu vào đấy. Kỷ luật đảng không cho phép ai nói khác.
Cơ quan gọi là đại học tổng hợp công nhân đặt ở Xương Sơn, cách cung điện vua mùa hè vài dặm. Khi cầm quyền, vua Càn Long đã xây nhiều cung điện và nhà thờ. ở đây có hai chùa phật nổi tiếng – Chùa Nhà thờ Phật ngủ và chùa Thanh Thiên. Mùa thu cây thông màu bạc và cây cối lá màu ngói đỏ tạo ra bức tranh màu sắc không đơn điệu. Đại học tổng hợp công nhân chiếm một khu rộng ở Xương Sơn, chỗ này thường đông người và ồn ào.
Tuy nhiên ở đây cũng có cái hay riêng. Mọi nơi đều được canh gác. Hai quan chức cao cấp của đảng – Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương giới thiệu trường cho tôi. Tại đây nhiều công chức của đảng. Vũ Trần Phổ cho tôi tất cả các thứ cần và cũng trao cho tôi huy hiệu của trường và nhắc tôi phải giữ gìn nó như con ngươi của mình. Ông dặn tôi đừng kể cho ai những gì xảy ra ở đây, bởi vì việc tôi làm là bí mật, mà lúc ấy tôi không hiểu vì lẽ gì.
Chỗ tôi ở nằm trong khu nhà gỗ cổ xem ra không tương xứng với cung vua lộng lẫy. Đó là một túp lều tàn tạ, nền đất và ngói đỏ. Duy nhất trong phòng có một bóng đèn điện tỏa ánh sáng đỏ quạch. Giường nằm là hai miếng ván kê trên hai cái niễng, đệm nằm cũng không thấy. Nước, tất nhiên, cũng không, còn buồng vệ sinh là một cái ngăn con bằng gỗ hở toang toác nằm sau nhà. Tôi phải dùng chăn bông mỏng ghép lại thành đệm để nằm. Sau đó người ta lắp bình nước, khí đốt và chậu rửa, để bắt đầu rửa ráy. Nhận trách nhiệm bác sĩ tôi không thể chung đụng chỗ ở với người khác. Điều kiện ăn ở tồi tệ đến mức khi tới đây chơi Lý Liên không thể thốt lên lời, và chúng tôi gặp nhau chỉ trong những ngày nghỉ ở nhà mẹ tôi, nơi tôi thường về để nghỉ và tắm giặt.
Một nét đặc biệt nữa là đồ ăn. Có hai bữa ăn như trong gia đình nông dân: mười giờ sáng và bốn giờ chiều. Nhưng khác với nông dân hiếm khi được ăn thịt, thì chúng tôi theo khẩu phần hạng hai thịt được cung cấp hàng ngày. Nhà ăn cũng chẳng gì hơn ở nhà tôi, nhưng thức ăn được nấu khéo léo, thậm chí lại còn ngon, và nhà bếp sạch đến ngạc nhiên.
Chỗ làm việc trong bệnh viện còn làm rầu lòng tôi hơn. Đó cũng lại là ngôi nhà nông thôn nền đất chẳng có một tí thiết bị nào cả, trừ vài cái nồi đun và bộ đo huyết áp. Trong số thuốc thang, tôi chỉ thấy aspirin, thuốc ho, và vài thứ chế phẩm chống vi trùng. Khi chẩn bệnh tôi chỉ dùng kinh nghiệm bác sĩ trước đây của mình. Tất cả chỉ mong rằng chẳng bệnh nhân nặng nào chui vào đây.
Dù vậy, nhân viên trong bệnh viện rất lạc quan. Trong biên chế có gần 30 người vàhọ chờ đợi sự xuất hiện của tôi từ lâu. Gặp tôi họ mừng ra mặt. Tất cả đều rất trẻ, phần lớn trẻ hơn tôi. Ngay cả hai người phụ trách cũng không quá 25 tuổi. Đám nhân viên được chọn từ nông dân, mới chỉ học qua tiểu học. Vì thế họ chỉ làm được công việc sơ cứu – băng vết thương nhỏ và cho uống aspirin khi sốt. Về các bệnh khác và ngay đến hỏi bệnh họ cũng không biết gì cả. Chúng tôi tin rằng đồng chí sẽ dậy chúng tôi kiến thức y học. Chúng tôi hoàn toàn chưa hiểu biết gì cả – họ nói thế và rất muốn tôi giảng bài mà không hiểu rằng thật vô nghĩa trong điều kiện học vấn của họ chỉ có như vậy.
Một người bạn cũ đến Bắc Kinh thăm tôi trong ngày nghỉ. Chúng tôi ôn lại kỷ niệm đã qua và trao đổi với nhau về tình hình đất nước. Anh bạn tôi vào đảng từ nhiều năm trước và giờ đang làm việc ở Liên đoàn thanh niên dân chủ, tiền thân của đoàn thanh niên cộng sản Trung quốc. Tôi kể cho bạn tôi nghe về công việc của mình ở bệnh viện và nhấn mạnh là một cơ quan tương tụ thế tôi chưa từng gặp bao giờ. Anh ta đột nhiên nghiêm mặt nói rằng lãnh đạo của anh ta cho phép anh ta trao đổi cởi mở với tôi và uốn nắn tôi những sai lầm có thể mắc phải. Anh bạn nhận xét rằng tôi vẫn còn hiểu ít về công tác cách mạng và tôi cần ăn nói thận trọng.
Tôi không phủ nhận cái gì đang xảy ra khi đó làm tôi thất vọng, nhưng tôi không thể nào chấp nhận được cái điệu bộ anh ta đóng kịch. Tôi là bác sĩ – tôi nói – và khi người bệnh đến, tôi làm tất cả để chữa họ. Thế thì sai ở đâu và ăn nói thận trọng như thế nào?
Được thôi, bình tĩnh đã – bạn tôi trả lời – Hãy nói nghe xem bạn làm việc ở đâu thế? Tôi nhắc lại là tôi đang làm việc ở Đại học tổng hợp công nhân và biết rất ít về nó và chỉ chữa người bệnh mà xem ra chẳng thấy có vẻ bệnh nặng gì hết. Tóm lại tôi phí hoài thời gian. Anh bạn tôi cười phá lên, trả lời: Bạn nói chưa khi nào nhìn thấy đại học tổng hợp tương tự như thế phải không? Thế bạn đã để ý tới lính canh hay không? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi vì sao công việc của bạn lại bí mật? Này nhé, bạn thân mến của tôi ơi, bạn đang làm việc chẳng phải ở đại học tổng hợp đâu. Chỗ mà nơi bạn đang làm bây giờ là đầu não của các cơ quan cao cấp đảng cộng sản Trung quốc, và bệnh viện của bạn phục vụ những người lãnh đạo đảng không những hàng trung cấp mà còn cả hàng cao cấp nữa, họ sống tạm ở đó vì lý do an ninh, bởi vì Bắc Kinh được giải phóng chưa lâu. Vì thế việc của bạn được giữ bí mật. Sau này bạn bạn tự biết điều này và trong lúc này đừng biểu lộ gì về tình trạng bệnh viện. Tạm thời thì nó được trang bị tồi và anh có ít nhiều bệnh nhân, nhưng anh làm việc ở chỗ rất có uy tín và sẽ gặp nhiều người chức vụ cao. Chính vì thế sếp tôi cũng cho phép tôi nói thẳng với bạn. Khi đó tôi không tiện hỏi sếp bạn tôi tên gì, nhưng sau này tôi vỡ ra rằng ông ta là người cùng phe Giang Thanh tên là Nam Thanh phó bí thư đoàn thanh niên dân chủ, năm 1965 giữ chức bộ trưởng giáo dục.
Tôi trở về tổ quốc mong trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron và giúp đất nước trong lĩnh vực y học, nhưng lại bất ngờ rơi vào sào huyệt đảng cộng sản Trung quốc. Bắc Kinh vừa mới được giải phóng, tuy nhiên nội chiến vẫn còn tiếp diễn, nước cộng hoà nhân dân Trung hoa vẫn chưa ra đời chính thức. Trước khi lập chính phủ và chuyển giao quyền lực cho nó, các lãnh tụ cộng sản quyết định nằm lại ở Xương Sơn. Tại đấy có Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc và tất cả các cơ quan trực thuộc, cả Mao Trạch Đông, Lưu Thiếu Kỳ và Chu Đức – ba trong số những nhà lãnh đạo cao cấp đảng cũng sống ở đó. Chỉ có Chu Ân Lai và Nhậm Bích Thế ở chỗ khác.
Bệnh viện nơi tôi làm việc không phải là một phần của đại học tổng hợp và sau khi thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa nó thuộc Ban tổ chức Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung quốc so Dương Thượng Côn lãnh đạo, ông này năm 1988 là Chủ tịch cộng hoà nhân dân Trung hoa. Ban tổ chức thuộc Ban chấp hành trung ương lo việc an ninh, sinh hoạt vàtổ chức hiệu quả hoạt động của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc – Mao và cả 4 bí thư cao cấp. Ban tổ chức là cơ quan bí mật nhất và ngay cả nhân viên thậm chí cũng không biết gì về cơ cấu và chức năng của nó. Chỉ có giới chức chóp bu đảng biết mà thôi.
Đầu những năm 50 Ban tổ chức gồm 8 bộ phận trực thuộc:
Vũ Trần Phổ và La Đạo Nhương phụ trách Ban hành chính-quản trị. Trách nhiệm của nó là cung cấp phương tiện làm việc cho các lãnh tụ đảng, cung cấp đồ ăn, mọi thứ cần thiết, sửa chữa vàxây dựng nhà cửa cho công việc cũng như cho cá nhân, lo xe cộ, phương tiện giao thông và liên lạc và các tiền nong.
Uông Đông Hưng phụ trách Ban bảo vệ trung ương, sau này ông đồng thời giữ chức thứ trưởng công an mà Đào Thụy Sinh là bộ trưởng, đảm bảo anh ninh và sức khoẻ cho giới lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc. Ngoài phần lo bảo vệ tất cả lãnh tụ đảng, Uông Đông Hưng cũng lo luôn an ninh cho chính Mao và vì thế Uông luôn luôn nằm ngoài tầm kiểm soát. Hệ thống an ninh, thậm chí trong thời ấy, được thanh lọc kỹ càng. Giúp Uông chăm lo sức khoẻ lãnh đạo còn thêm cả bộ y tế đứng đầu là Phó Liêm Chương. Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên, là phục vụ chụp ảnh thậm chí cũng nằm dưới sự kiểm soát của Uông Đông Hưng.
Diệp Tử Long phụ trách Ban thư ký để lo về tổ chức và tiến hành các buổi hội thảo của đảng và tuyên truyền, ghi văn bản các bài phát biểu, và gửi, nhận bưu kiện, văn thư. Bản thân Diệp Tử Long lại còn là thư ký tin cẩn của Mao. Với tư cách này Diệp phải theo sát để cung cấp cho lãnh tụ tất cả các thứ cần bao gồm thức ăn, tiền nong và vào sổ sách và bảo quản tất cả quà cáp gửi tới Mao. Nói chung người thư ký thường là người phục vụ riêng.
Ban thư ký chính trị, có trách nhiệm cung cấp cho lãnh đạo tất cả các thông tin cần thiết, cũng như các văn bản báo cáo và tài liệu. Năn 1949 phụ trách bộ phận này là Trần Bá Đạt, thư ký chính trị chính của Mao.
Mao cũng có một số thư ký chính trị trong số đó có Giang Thanh vợ ông, Hồ Kiều Mục và Điền Gia Anh. Những nhà lãnh đạo khác cũng có ban thư ký như thế số lượng của nó thay đổi và các bà vợ của chính giới lãnh đạo cũng tham gia ban này.
Ban bảo mật do Lý Chí Dương và ban cơ yếu do Vương Kha đứng đầu là cơ quan bí mật nhất của Ban tổ chức. Nhiều người trẻ và tài năng làm việc ở đó. Họ phải có trí nhớ tuyệt vời biết cách hoá mã và giải mã các thông tin khác nhau chủ yếu là các bức điện đặc biệt. Bộ mã ấy khác hẳn với bộ mã điện báo chính thức của Trung quốc và luôn thay đổi để bảo toàn bí mật. Nó dùng để truyền tin bí mật trong nội bộ lãnh đạo và giới quân sự cao cấp. Nhân viên được đào tạo trong một trường đặc biệt ở Trương Dương Kiều, tỉnh Hà Bắc, mõi mmnhân viên cơ yếu đều mang một bí số riêng. Họ phải biết bộ khoá mã và cần bảng và dẫn giải tra cứu. Khi lớn tuổi, trí nhớ giảm đi thì họ chuyển sang việc khác.
Ban cơ mật đảm bảo an toàn bí mật khi truyền và nhận thông tin giữa các nhà lãnh đạo đảng và quân đội trong nước. Phần đông cán bộ của cơ quan này xuất thân từ thành phần cơ bản và thường là không được học hành gì cả, thậm chí không biết đọc biết viết. Họ làm công việc giao liên và đưa chỉ thị xuống các tỉnh xa ở Trung quốc. Người ta đòi hỏi họ không phải là học hànmh mà là lòng trung thành tuyệt đối về mặt chính trị.
Ban lưu trữ do Tăng Sơn phụ trách có nhiệm vụ ghi chép các số liệu lưu trữ
Ban hậu cần vận tải do Đặng Đình Tường phụ trách đảm nhận cung ứng vận tải để cung cấp tất cả các thứ cần thiết cho cơ quan đảng.
Bệnh viện chúng tôi trực thuộc La Đạo Nhương và Phó Liêm Chương, có nhiệm vụ bảo vệ sức khoẻ của tất cả những người làm việc trong cơ quan đảng. Tất cả biên chế Ban tổ chức, từ những nhà lãnh đạo cao cấp đến nhân viên quèn và gia đình họ, đề là bệnh nhân của tôi. Mọi người phần đông là trẻ và khỏe mạnh hiếm khi đến bệnh viện, bệnh thì xoàng nê không cần kiến thức và kinh nghiệm y học. Và dù rằng mơ ước của tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron bị tan thành mây khói, ở Xương Sơn tôi là bác sĩ duy nhất có bằng cấp và quen biết nhiều gương mặt những người lãnh đạo. Tôi còn trẻ và tự trọng, và người ta tâng bốc rằng tôi làm việc bên cạnh lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc. Tôi đều kính trọng và ngưỡng mộ tất cả các bệnh nhân. Những con người này thực hiện cuộc cách mạng và sẵn sàng hy sinh cho tổ quoóc của chúng ta. Họ rời gia đình của mình từ thời thanh niên trai trẻ tham gia Trường Chinh, chịu đựng nhiều gian khổ và mất mát. Họ làm nên chiến thắng chói loà đối với bọn banns nước Tưởng Giới Thạch. Hộ cốang hiến toàn boọ sinh lực của mình cho sự nghiệp xây dựng một nước Trung hoa mới, coi thường lợi ích và quyền lợi cá nhân. Trước đó tôi tôi chưa hề gặp những người như thế này và thành tâm kính phục lòng dũng cảm và tin bào tương lai đất nước tôi.
Tôi ở trung tâm Cách mạng Trung quốc, và tánhung sướng không những đã trở thành người chứng kiến việc thành lập chính thức nước cộng hoà nhân dân Trung hoa, mà còn chúc mừng sự kiện vĩ đại này bên cạnh những lập nên nó.
Đó là ngày 1 tháng mười năm 1949. Tất cả mọi người ở Xương Sơn thức dậy lúc 5 giờ sáng, một buổi sáng tinh sương không khí tươi mát đến ngạc nhiên, để lên đường vào Bắc Kinh được trang hoàng đẹp đẽ trong buổi sáng ngày ấy. Xe tải chở chúng tôi đến quảng trường Thiên An Môn, khi đó chưa tới 7 giờ. Chúng tôi tập hợp đội ngũ ở chiếc cầu đá gần cổng Thiên Bình, cổng này thời cổ là lối vào Cấm Thành. Khi đó quảng trường nhỏ hơn bây giờ, vàở đó nhiều mhà nhỏ tồi trong những năm trước đây dùng cho quan lại chờ gặp hoàng đế. Toà nhà Hội nghị đại biểu toàn Trung hoa và bảo tàng cách mạng được xây trên quảng trường vào năm 1959, nhân dịp 10 năm thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa. Trên quảng trường có nhiều đám đông người – đại diện nông dân, công nhân, trí thức và dân chúng trên khắp đất nước rộng lớn. Tôi thấy rõ lễ đài, trước khi khai mạc đã có nhiều nhà lãnh đạo đất nước. Trước biển người hàng nghìn lá cờ đỏ vẫy tung và Bắc Kinh điêu tàn đổ nát dường như được tiếp máu và hồi sinhứ. Đám đông người hô lớn: Cộng hoà nhân dân Trung hoa muôn năm! Đảng cộng sản Trung quốc muôn năm!. Vang lên bài hát cách mạng.
Đám đông người lạc quan cầm biểu ngữ và hát vang tiến vào quảng trường tăng dần. Đúng 10 giờ, Mao Trạch Đông và các nhà lãnh đạo khác xuất hiện trên lễ đài. Trời đất như vỡ tung. Mao là thần tượng của tôi từ anh tôi giải thích cho tôi rằng đây là vị lãnh tụ vĩ đại, cứu tinh của Trung quốc. Hôm ấy tôi lần đầu tiên thấy Mao. Thậm chí làm việc ở Xương Sơn tôi không thấy ông, dù rằng tôi sống cách không xa dinh thự ông là mấy.
Mao là người cao lớn khoẻ mạnh. Ông tròn 56 tuổi trước đây chưa lâu, nhưng trông ông khá trẻ. Khuôn mặt ông vẻ đôn hậu, dưới mái tóc đen và dây là vầng trán cao. Giọng ông vang lên. Giọng ông âm vang, phong thái toát lên vẻ tự tin và người mạnh mẽ. Ông mặc bộ quân phục như trong ảnh mà mọi người thấy trên sách báo. Chính phủ mới đã được thành lập, và Mao phát biểu với tư thế của Chủ tịch Cộng hoà Nhân dân Trung hoa, đại diện không phải cho đảng, mà cho chính quyền nhà nước. Ông mặc bộ quần áo xám xẫm giống hệt bộ quần áo Tôn Trung Sơn đã mặc (sau này bộ quần áo này gắn liền với Mao), đầu ông đội chiếc mũ công nhân thường đội trong các ngày lễ. Trên lễ đài đứng cạnh ông là những nhân vật đại diện cho những người không đảng phái và tổ chức như để xác nhận sự tồn tại của một mặt trận thống nhất. Bà Tống Khánh Linh đẹp đẽ, vợ goá của Tôn Trung Sơn, người đánh đổ triều đại phong kiến cuối tình và mở cho Trung quốc con đường mới phát triển.
Trung tâm của sự chú ý, tất nhiên, là Mao, Ông chỉ đạo rất chắc chắn và thậm chí không tỏ vẻ của sự cao ngạo. Tôi nhiều lần thấy Tưởng Giới Thạch, khi hắn còn nắm quyền lực. Tưởng luôn luôn tỏ ra cách hẳn với người khác và thích tỏ được thuộc hạ tâng lên. Mao tỏ ra là khác hẳn.
Mao có sức thu hút như nam châm. Dù rằng bài phát biểu của ông không hề tỏ vẻ giọng quý phái, giọng Hồ Nam của ông cũng không cũng được đón nhận như giọng đáng yêu. Mượt mà và sang sảng giọng ông thôi miên đám công chúng Nhân dân Trung quốc đã vùng dậy – Mao bắt đầu và đám đông cuồng nhiệt đáp lại lời ông bằng tiếng vỗ tay chúc mừng cộng hoà nhân dân Trung hoa và đảng cộng sản. Tim tôi rung lên vì sung sướng, mắt tôi tràn lệ vì hạnh phúc. Tôi rất tự hào về nước mình tin vào tương lai thịnh vượng của nó. Những năm bị đè đầu cưỡi cổ, ách nô lệ và tủi nhục vĩnh viễn trôi qua. Tôi tin rằng Mao là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Trung hoa và là người khai sinh ra lịch sử nước Trung hoa mới. Tôi đứng cách ông chỉ vào bước chân, nhưng tôi cảm thấy sao mà xa thế. Tôi là một bác sĩ quèn, còn ông là lãnh tụ cách mạng vĩ đại. Ngày hôm ấy tôi thậm chí không thể hình dung rằng chỉ một thời gian ngắn sau tôi thành bác sĩ riêng của ông, theo sát ông 22 năm liền và chứng kiến cái chết của ông.
Tháng 12 năm 1949, sau ngày lễ, Mao Trạch Đông đến Moskva, ông ở đấy vài tháng, ký với Stalin Hiệp định hữu nghị và hợp tác giữa Trung quốc và Liên-xô. Tháng 2-1950 ông quay về Trung quốc, và ngay sau đó chuyển từ Xương Sơn về Bắc Kinh. Tư dinh của ông là cung điện nằm trên vườn thượng uyển trong Cấm Thành. Các nhà lãnh đạo đảng cộng sản lần lượt chuyển về đây chiếm các ngôi nhà sang trọng của vua trước đây. ở Xương Sơn chỉ còn lại Ban hành chính quản trị và ban bảo mật tài liệu. Bệnh viện chúng tôi chia làm đôi. Một phần ở Bắc Kinh để chữa các nhà lãnh đạo và phần còn lại nằm lại Xương Sơn do tôi phụ trách.
Nếu không phải ngẫu nhiên, thì đời tôi có thể đã khác.

Thứ Năm, 3 tháng 12, 2009

Bác Sỹ riêng của Mao (tiếp theo


Phần 2 (1949-1957)

Chương 2

Năm 1949 tôi tròn 29 tuổi. Tôi là bác sĩ hàng hải ở Xít nây (úc). Qua báo chí tôi hiểu rằng thành phố quê hương tôi ngừng tiếng súng. Ngày 31-01-1949 tất cả dân Bắc Bình (tên gọi Bắc Kinh thời đó) đổ ra đường để đón chào những người giải phóng mình. Kéo về đây có cả lãnh đạo đảng cộng sản. Họ dự định thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Bắc Bình lại trở thành Bắc Kinh là thủ đô Trung quốc. Tên gọi Bắc Bình, nghĩa là bình yên phương Bắc. Tên gọi Bắc Kinh nhận được sau khi chính phủ Tưởng Giới Thạch rút về thủ đô phía nam – thành phố Nam Kinh. Nội chiến trong nước giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng vẫn tiếp tục, nhưng không ai hoài nghi rằng về chiến thắng của hồng quân Trung quốc.
Bắc Kinh là thành phố quê hương tôi, ở đó tôi sống 13 năm đầu tiên cuộc đời. Nhà của chúng tôi xây theo phong cách truyền thống Trung hoa. Gia đình tôi giàu có và thuộc về hạng trên. Thực tế chúng tôi sống không phải trong nhà riêng biệt, mà trong một khu gồm nhiều nhà một tầng mái ngói và ba sân riêng biệt trồng cỏ và rau. Chúng tôi sống ở phía nam Cấm Thành ở khu Lưu Linh Chương. Khu này ngay lập tức bắt đầu sau bức tường dày, ngăn cách Thành Nội hoặc chỗ ở hoàng đế. Cứ mỗi năm một lần, ngày lễ Xuân, mọi người Bắc kinh đổ về đây. Tại đây có thể mua được đồ chơi Trung quốc cho trẻ con. Tên gọi Lưu Linh Chương xuất phát từ chữ Trung quốc Lưu Linh – bắt mắt. ở đây thời Minh có xưởng thợ làm ngói mạ vàng cho các toà nhà hoàng cung.
Cụ tổ tôi chết trước tôi ra đời, nhưng gia phong mà cụ lập ra vẫn được giữ gìn. Chân dung cụ treo ở một phòng mà chúng tôi thường tụ họp tất cả gia đình vài lần trong năm để ma ứtưởng nhớ cụ. Phòng thăm bệnh của cụ là bảo tàng gia đình. Cụ lập hiệu thuốc trong đó các thày lang. Cụ tôi là người giàu nhưng mọi người kính trọng và quý cụ vì cụ luôn luôn giúp đỡ người nghèo. Trong hiệu thuốc người nghèo có thể nhận thuốc không mất tiền. Không những người dân Lưu Linh Chương mà còn cả Bắc Kinh biết cụ. Tôi lớn lên trong gia đình, nơi người ta cho rằng người nghèo chịu đựng đau khổ và cần từ thiện.
Tuy nhiên do sự giàu có của chúng tôi đã tạo ra bức tường vô hình ngăn cách với các gia đình nghèo. Mẹ tôi không cho phép tôi chới với trẻ con gia đình nghèo, trong thời ấy có nhiều ở Bắc Kinh. Từ thuở thơ ấu, gia đình khuyên tôi cần tiếp tục truyền thống gia đình và trở thành bác sĩ. Tôi cho rằng tôi được sinh trong gia đình lựa chọn và tự hào về tổ tiên.
Chú tôi, em út của bố tôi, cũng trở thành bác sĩ và cũng cứu giúp người nghèo. Khi tỉnh Hồ Nam có bệnh thương hàn, chú tôi tự nguyện đến đó để cứu họ và chính ông cũng bị lây bệnh và chết khi chưa tròn 30 tuổi. Vợ goá của chú tôi và hai con trai cùng sống trong ngôi nhà chúng tôi, tôi coi họ như anh trai mình. Tôi còn có người anh, con người vợ trước của bố tôi. Anh cũng coi họ như anh em ruột của mình. Bố tôi cưới mẹ tôi sau cái chết của bà vợ đầu.
Bố tôi đã phá vỡ gia phong. Năm 1920 ông sang Pháp thực tập. Lúc ấy tôi mới ra đời. Tôi biết mặt bố mãi 7 năm sau. Qua thư từ, chúng tôi biếttrong số sinh viên của nhóm bố tôi có Chu Ân Lai, người mà ông đánh bạn. Tình bạn của họ giữ được đến tận khi bố tôi mất, dù rằng Chu Ân Lai trở thành lãnh tụ cộng sản, còn bố tôi thuộc về những người quốc gia thân Quốc dân đảng, và có chức vụ cao trong chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Việc bố tôi quay về nước gây ra một bê bối. Ông mang theo một bà vợ người Pháp và bà cũng sống trong ngôi nhà chúng tôi. Mẹ tôi là một phụ nữ Trung quốc điển hình, xuất thân từ tầng lớp dân thường. Trên vai mẹ tôi là cả gánh nặng gia đình, kinh tế nuôi dậy con cái nhưng bà biết cách cư xử với họ hàng và người thân như bao phụ nữ chung thuỷ, đảm đang. Theo tục lệ Trung quốc việc đàn ông giàu có nhiều vợ là tương đối phổ biến. Nhưng gia phong của chúng tôi thì không chấp nhận việc xuất hiện bà vợ hai của bố mà họ cho rằng đó là sự nhục nhã cho gia đình.
Bà vợ hai của bố tôi là người ngăn nắp và có giáo dục. Bà dậy tiếng Pháp ở đại học tổng hợp Bắc Kinh đại học và luôn luôn thân thiện với tôi. Tuy nhiên tôi cảm thấy rằng mẹ tôi căn răng chịu đựng việc này. Mẹ tôi thường trút nỗi bự tức xuống đầu tôi và tôi cũng đôi khi cãi lại. Chỉ khi lớn rồi, tôi hiểu rằng trong vụ việc bố tôi có lỗi.
Thậm chí thời thơ ấu tôi không thích bố tôi. Hiếm khi bố con nói chuyện với nhau trừ khi ông chửi mắng tôi, còn tôi thì bỏ ngoài tai. Tất vả mọi người còn lại trong gia đình đối xử với nhau thân mật và kính trọng. Sự bình đẳng trong gia đình tôi đã tồn tại từ lâu, cho nên thái độ gia trưởng của bố tôi đã xúc phạm không những đến chúng tôi mà còn đến ký ức giòng họ chúng tôi. Ngay sau khi quay về Trung quốc bố tôi cùng bà vợ hai chuyển đến Nam Kinh. Sau một số năm bà vợ người pháp của ông từ trần. Ông gặp phụ nữ hết người này đến người khác nhưng chẳng cưới ai cả. Tôi rất xấu hổ về tư cách của ông, và tôi quyết tâm học hành để trở thành một bác sĩ lành nghề. Sự hằn thù của tôi đối với bố đã lây sang cả chính quyền Quốc dân đảng và trong nhiều năm tôi có mối quan hệ thân thiện với đảng cộng sản. Tuy nhiên sau này ở gần Mao, tôi lại va chạm với tính thô lỗ và vô đạo đức như từng có ở bố tôi.
Cũng như đa số người Trung quốc cùng thế hệ, tôi là người yêu nước và tự hào về nền văn hoá lâu đời của đất nước mình. Lịch sử 4000 năm của Trung quốc mang đến sự vinh quang và giàu có, triết học Trung quốc cổ đại, thi ca, sử ký đã đạt được những kỳ tích khác thường và được ngưỡng mộ khắp toàn thế giới. Vì thế tôi không thể chịu đựng, trong quá khứ đất nước vĩ đại bắt đầu xảy ra sự suy tàn. Ngay từ trong trường tôi biết nhục nhã của Trung quốc trong Chiến tranh nha phiến với Anh vào năm 1839. Sau đó lại tới Pháp, Nhậõt và Nga can thiệp. Do đó Trung quốc mất độc lập phải trở thành thuộc địa, sự hùng mạnh thuở nào biến mất dạng không còn dấu vết. Các ông chủ ngoại quốc tới đày các thành phố lớn và đất nước bắt đầu sống dưới một luật lệ mới lạ, ngược với truyền thống văn hóa và tinh thần của dân tộc Trung quốc. Từ nhỏ tôi đã nhìn thấy tận mắt chiếc biển treo ngay lối vào công viên cạnh khu phố Tây ở Thượng Hải, trên đó là dòng chữ: Cấm chó và người Trung quốc làm tôi thấy nhục nhã và đau lòng. Cũng như nhiều người, tôi cho rằng nỗi bất hạnh của đất nước Trung hoa xuất phát từ ảnh hưởng ngoại quốc hoặc là từ các thế lực đế quốc như – sau này người ta thường nói.
Năm 1931, khi tôi tròn 11 tuổi, người Nhật chiếm Bắc Mãn Châu và lập nên quốc gia bù nhìn Mãn Châu. Mẹ con chúng tôi bỏ Bắc Kinh và đi về phương nam – đến Quý Châu, nơi tôi theo học trường trung học thuộc đại học tổng hợp do phái bộ hướng đạo Mỹ thành lập. Tất cả các môn học đều bằng tiếng Anh, đúng hơn là tiếng Anh kiểu Mỹ. Chương trình học có nhiều bài phần giảng về kỷ luật tôn giáo. Tôi đã nghiên cứu tỷ mỷ lịch sử Mỹ. Năm 1935, lúc 15 tuổi tôi đã được kết nạp vào tổ chức hướng đạo.
Trong thời gian rất ngắn tôi đã quan tâm đến tư tưởng cộng sản. Người anh cùng cha khác mẹ của tôi học y khoa ở đại học tổng hợp Thượng Hải và năm 1935 vào đảng cộng sản. Cái đó chẳng xứng với vị thế và giàu có của anh tôi. Lòng yêu nước và thương dân nghèo đã thôi thúc anh tôi. Anh tôi đến Quý Châu thăm chúng tôi vào ngày nghỉ và luôn khẳng định cho tôi về sự tàn bạo và bóc lột công nhân của chủ nghĩa tư bản. Ông chỉ cho tôi rằng chỉ có những người cộng sản mới có thể xây dựng được một thế giới không có nghèo đói và bình đẳng. Theo anh tôi, Quốc dân đảng làm tay sai cho đế quốc và không có khả năng đấu tranh với xâm lược Nhật ở Mãn Châu, chỉ có những người cộng sản mới có thể đánh đuổi bọn Nhật ra khỏi đất nước Trung quốc. Tôi nghe anh tôi và bắt đầu tin vào khả năng hồi sinh lại đất nước Trung hoa giàu có, văn minh và độc lập trên nguyên tắc các bên cùng bình đẳng và cùng có lợi. Tôi bắt đầu chú trọng đọc những cuốn sách mà anh tôi đưa cho: Lịch sử kế hoạch 5 năm của Liên-xô Thép đã tôi thế đấy của Nicolai Oxtovxky và cả sách của nhà văn Pháp Henry Barbus về vai trò xuất sắc của Stalin trong việc chuẩn bị và thực hiên cách mạng tháng 10 vĩ đại ở Nga. Anh vạch cho tôi thấy chỉ có ý tưởng cộng sản mới cứu được Trung quốc và và các lãnh tụ cộng sản xuất sắc như Chu Đức và Mao Trạch Đông mới dẫn dắt đất nước đến kinh tế và tinh thần sanựg lạn. Số phận Trung quốc trong tay họ. Chúng tôi và anh gọi họ là Chu Mao, dường như đó là một người. Từ ấy, tôi bắt đầu đọc Chu Mao và lòng tin này dần dà tăng lên, khi tôi hiểu rằng Lỗ Tấn nhà văn yêu quý của tôi cũng thiên về lý tưởng cộng sản. Năm 1936 một người chị họ giới thiệu tôi với cô bạn cùng lớp của chị. Cô ta tên là Võ Tương Thanh – hay là Võ Lý Liên (theo tên thánh), và tôi thấy phải lòng cô ấy từ cái nhìn đầu tiên. Cô cũng xuất thân từ gia đình giầu có. Mười năm sau chúng tôi mới cưới nhau.
Quân Nhật tràn vào đất nước và chúng tôi cùng mẹ đầu tiên chạy về Vũ Hán năm 1937, sau đó chạy về Trùng Khánh tỉnh Tứ Xuyên. Thành phố này Tưởng Giới Thạch năm 1938 coi là thủ đô của Quốc dân đảng. Cuối năm 1934 căn cứ địa của đảng cộng sản Trung quốc ở Giang Tây bị quân đội Quốc dân đảng bao vây, nên trong tháng 10, lực lượng chính của Hồng quân, bị rơi vào vòng vây, đã phải làm cuộc đi bộ vĩ đại và anh hùng sang phía tây Trung quốc để nhập với căn cứ khác. Cuộc hành quân này kết thúc cuối năm 1935 ở tỉnh Thiểm Tây và viết nên trang sử hào hùng của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Trung quốc. Anh tôi và chị họ tôi cũng đến đó.
Năm 1939 tôi bắt đầu học y khoa ở trường đại học y đại học tổng hợp phía tây Trung quốc, được phái bộ Canada lập ra gần một thế kỷ trước ở thành Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên. Sau khi Nhật chiếm Bắc Kinh nhiều khoa và sinh viên trường y Bắc Kinh chuyển về Thành Đô, sau năm 1941 các bộ phận này hợp nhất làm một. Cả hai trường đều được Mỹ, đúng ra là quỹ Rốc-cơ-phen-lơ, tài trợ. Phần đông giáo sư là người Mỹ. Bài giảng bằng tiếng Anh, tác giả sách giáo khoa là những nhà y học đầu ngành xuất sắc của phương tây. Vì thế trình độ học vấn của chúng tôi rất cao và tương ứng với những tiêu chuẩn mà Mỹ và các nước châu Âu chấp nhận.
Sau khi học xong, tôi được trao hai bằng: bằng tốt nghiệp trường y khoa thuộc đại học tổng hợp tây Trung quốc và bằng tốt nghiệp đại học tổng hợp New York.
Lý Liên đầu tiên dự thính những bài giảng ngắn về xã hội học ở đại học tổng hợp Phương Đông Trùng Khánh, nhưng rồi sau chuyển sang học trường nữ sinh thiên chúa giáo ở Thành Đô.
Tôi kết thúc thực hành mổ vào năm 1945, đồng thời với sự thua trận của Nhật Bản. Tôi nhận việc làm trong một bệnh viện đa khoa trung ương Nam Kinh, được trang bị thiết bị hiện đại nhất, nơi tụ hợp các bác sĩ giỏi nhất. Tôi muốn được học chuyên môn hẹp là phẫu thuật nơ-ron. Tháng 11-1946 tôi và Lý Liên cuối cùng kết hôn với nhau. Lý Liên khi đó làm ở thư viện thuộc sứ quán Anh.
Nội chiến giữa những người cộng sản và Quốc dân đảng tiếp tục. Do lạm phát nên cuộc sống khó khăn vô cùng. Lý Liên nhận lương ở Sứ quán Anh không đến nỗi tồi – khoảng 150 đô-la/tháng, người ta trả bằng đồng bảng Anh. Tuy nhiên tôi nhận được khoảng 25 đô la Mỹ nhưng nhận bằng tiền Trung quốc. Tiền này tôi tức thời đem ra chợ đen đổi ngay sang đôla Mỹ hoặc đôla Mehico đúc bằng bạc. Lạm phát phi mã đến nỗi nếu tiền vào buổi sáng đủ mua ba quả trứng thì đến chiều chỉ mua nổi một quả. Người ta chở tiền lên xe kéo, giá gạo tăng đến mức những người tuyệt vọng trước đây không bao giờ nghĩ tới ăn cắp thì nay lao vào cướp lấy những gì có thể lấy được.
Trong cơn khủng hoảng này, Đặng Ninh Hoàng, bạn cùng lớp của tôi, đang là bác sĩ làm việc ở Hồng Kông gợi ý tôi chuyển đến đó. Cuộc sống ở đó ổn định và nghề bác sĩ kiếm được số tiền không nhỏ.
Đối với tôi, quyết định chẳng dễ dàng gì. Đồng ý là, ở Hồng Kông chúng tôi có thể sống tốt hơn, tuy nhiên trình độ y học ở đó thấp hơn đáng kể so với ở Trung quốc, và một thày thuốc phẫu thuật như tôi có thể bị mai một nghề nghiệp. Nhưng nội chiến vẫn còn tiếp tục, và Lý Liên khuyên tôi đi khỏi tổ quốc. Tháng 12 năm 1948 tôi rời Nam Kinh và đi Hồng Kông.
Nhưng sống ở đó không lâu. Cũng năm ấy tôi nhận việc ở một hãng nằm ở đông úc và trở thành bác sĩ ở Xít nây. Dần dà, tôi theo các đoàn tàu qua lại úc và Tân Tây lan. Tôi hoàn toàn mãn nguyện. Lý Liên chuyển sang Hồng Kông, thuê nhà và kiếm việc trong một cơ quan của người Anh. Tôi không muốn vợ tôi chuyển sang úc với tôi. úc là nơi người ta chẳng yêu quý gì dân da vàng. Vì thế tôi cũng chẳng có ý định sống lâu dài ở Xít nây và tôi chỉ mê mải thực hành y học ở đó để hy vọng kiếm một cái gì đó để phòng thân. Tôi chưa nhận quyền công dân úc. Niềm tự hào và tự ái của tôi không thể hoà hợp được với những người bảo hoàng có tư tưởng phân biệt chủng tộc ở đây. Tôi sống trong một căn lều trại nhỏ, và những người úc mà tôi nói chuyện, đều một giọng cho rằng Trung quốc không khi nào hồi sinh được. Tôi rất tức nhưng tôi lại còn cần tiền, đúng thế và ở Hồng Kông cũng chẳng vui hơn. Lẽ nào chúng tôi vẫn mãi là thuộc địa Anh nơi tôi chỉ là nô lệ bị tước đoạt mọi quyền lợi của quốc gia hải ngoại.
Khi những người cộng sản chiếm Bắc Kinh, tôi cảm thấy trong lòng trào lên nỗi mừng không tả được. Tháng 2-1949 Hồng quân Trung quốc đè bẹp quân Anh và vượt qua sông Dương Tử, sự kiện này làm tôi sung sướng tột độ. Tôi cũng tin rằng với chiến thắng của những người cộng sản Trung quốc thì bọn cai trị nước ngoài sẽ cuốn xéo và đất nước được giải phóng khỏi ách sánh vai với các nước trên thế giới.
Rồi tôi đã nhận được thư của mẹ tôi. Bà đã quay về Bắc Kinh. Mẹ tôi gửi kèm thư của anh tôi, vừa quay về thành phố quê hương và giờ đây giữ một chức vụ trong Cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Anh tôi rất sung sướng và rất mong tôi trở về.
ở Trung quốc còn thiếu các bác sĩ lành nghề – anh tôi viết – chính phủ mới đảm bảo cho chú công việc tốt, và toàn thể gia đình tôi lại đoàn tụ.
Tôi lại băn khoăn. Cuộc sống ở Xít nây đang yên ổn và tốt đẹp. Vợ và mẹ tôi còn có cơ hội đến đây được với tôi. Ngoài ra, tôi có thể giúp mẹ tôi ở Bắc Kinh tiền nong.
Chỉ có một điều tôi không hoài nghi. ở đây, úc, không khi nào tôi thành bác sĩ phẫu thuật nơ-ron, vì lẽ tôi là người Trung quốc. Dĩ nhiên, tôi có thể kiếm được hàng đống tiền, nhưng luôn luôn mặc cảm mình là người xa lạ bị đuổi khỏi tổ quốc. Đây có phải là lòng yêu nước của tôi không?
Gần đến ngày thanh minh. Tôi dự định tổ chức ngày lễ này vơi anh bạn thân Alex Young. Alex sinh ở úc, nhưng vẫn cố gắng giữ nhiều phong tục Trung quốc. Anh ta và vợ làm việc chăm chỉ. Họ có một cửa hàng tạp hoá ở phố Elizabet
Khi tôi gặp, Alex ngay lập tức nhận xét rằng tôi có một cái gì đó mất hồn. Tôi kể cho anh ta nghe tất cả.
- Cần phải nghĩ cho kỹ đấy – Alex nói.
- Anh tính thế nào? – tôi hỏi.
- Tôi không thể là cố vấn của anh – Alex Young chậm rãi – Gia đình tôi ở đây, ở úc. Thậm chí nếu họ hứa với tôi là trả lương tôi hậu hĩnh ở Bắc Kinh, thì tôi cũng chẳng nghĩ tới quay lại. Đúng là ở đây có tệ phân biệt chủng tộc, nhưng dân số thì không nhiều, và có thể sống dễ chịu. Vì sao anh không viết cho anh trai và hỏi tỷ mỉ về công việc, và để họ nói cho mình lương lậu ra sao chứ? Sau đó chúng ta so sánh tiếp.
Lời của Alex thức tỉnh lòng yêu nước của tôi. Tôi hoàn toàn không để ý ở đâu kiếm được nhiều tiền hơn. Nếu những người cộng sản đưa Trung quốc đến giàu có thì tôi sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc của tổ quốc mình.
Nhưng Alex, tất nhiên, là đúng: tôi phải biết tất cả một cách tỷ mỉ. Ngay chiều đó tôi viết cho anh tôi.
Đầu tháng 5 tôi nhận được thư trả lời. Anh tôi lại giục tôi về nước. Anh kèm thư của thủ trưởng của anh, Phó Liêm Chương, phó cục trưởng cục bảo vệ sức khoẻ thuộc ủy ban quân sự đảng cộng sản Trung quốc. Phó Liêm Chương, ở nước ngoài gọi là Nelson Phó, là một nhà y học nổi tiếng của Trung quốc. Đồng thời ông cũng là bác sĩ duy nhất được đào tạo ở phương tây tham gia Trường Chinh. Năm 1934 ông chưa cho Mao khỏi sốt rét và trong thời gian chiến tranh theo dõi sức khoẻ lãnh tụ đảng cộng sản Trung quốc ở Diên An.
Thư của Phó ngắn ngủn, nhưng trong đó sự nồng nhiệt và và lòng chân thành đã giảm bớt. Ông mời tôi trở về và đề nghị tin vào những người bác sĩ Trung quốc khác. Về công việc của tôi ở Bắc Kinh và về lương lậu Phó không nói gì, chỉ bâng quơ rằng tôi sẽ hài lòng về công việc. Tôi được ông tâng bốc là được giữ chức vụ cao, và yêu cầu tôi trở về. Vì đảng cộng sản rất thiếu thày thuốc lành nghề. Tôi nghĩ mình đã tìm thấy chỗ đứng ở nước Trung hoa mới. Tôi quyết định nhanh chóng về nước.
Alex Yuong tổ chức bữa ăn gĩa từ. Có hai người Trung quốc, cũng là bác sĩ. Họ bảo tôi viết cho họ từ Bắc Kinh, và thêm rằng nếu tôi thấy khó sống, họ có thể giúp tôi quay sang úc.
Tôi chẳng khi nào viết cho anh ta cả. Ba mươi sáu năm sau, năm 1985 tôi ở úc theo lời mời của hiệp hội bác sĩ úc và có mặt ở đại lộ Elizabet hy vọng thấy Alex Yuong. Nhưng tất cả đã thay đổi, và cửa hàng nhỏ của anh ta không còn đó. Tôi không còn thấy Alex Yuong nữa.
Thế là chúng tôi và Lý Liên lại đoàn tụ. Giữa tháng 5-1949 có cuộc xáo lộn ở thuộc địa Anh. Hàng nghìn người đã chạy về đây tránh họa cộng sản và hàng nghìn người chuẩn bị quay về đất mẹ. Hiện tượng này thật lạ lùng và không bình thường. Khi gặp Đặng Ninh Hoàng và kể về quyết định của tôi quay về Trung quốc, anh ta lắc đầu quầy quậy Chẳng lẽ anh không thể ở lại đây và làm việc với tôi? – ông hỏi. Tôi kể cho anh ta thư của Phó Liêm Chương. Đặng buông lời: Thôi, ông tự quyết lấy. Nếu mọi việc xuôi xẻ thì viết cho tôi. Có thể, cả tôi cũng về tổ quốc.
Tôi chẳng bao giờ viết cho anh ta được cả.
Tôi cùng Lý Liên tới thăm ông Trương Thành Đô giáo sư quen biết đại học tổng hợp Phương Đông. Ông cũng về Bắc Kinh. Người ta xếp ông vào đoàn đại biểu hội đồng hiệp thương chính trị Trung quốc. Đảng cộng sản lôi kéo thêm các trí thức không đảng phái vào một mặt trận duy nhất, trong diễn đàn được triệu tập để bày tỏ cho các lực lượng dân chủ và giải quyết vấn đề chính quyền ở trong nước. Chúng tôi nghĩ lúc đó chính phủ cộng sản sử dụng tri thức để kéo đất nước ra khỏi khủng hoảng. ở Trung quốc đều có tương lai – ông nói – cả nước đang trên đường hồi sinh.
Phiên họp đầu tiên ủy ban hiệp thương được tổ chức cuối tháng 9. 1949, đã đi tới quyết định thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa và bầu ra chính phủ mới do Chủ tịch Mao Trạch Đông đứng đầu. Phó chủ tịch của Mao là Lưu Thiếu Kỳ, bạn chiến đấu của ông và Tống Khánh Linh, vợ goá của nhà cách mạng vĩ đại Tôn Trung Sơn, người đã đánh đổ triều Thanh và lập nên nước cộng hoà Trung hoa từ 1912. Nhưng rõ rằng là ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là một cây cảnh cho nền dân chủ – mọi việc điều hành trong nước nằm trong tay những người cộng sản. ủy ban hiệp thương chính trị nhân dân chỉ là lọ cắm hoa cho vui mắt nhưng hoàn toàn vô tích sự. Ai đó trong số thành viên ủy ban này tỏ ra dũng cảm phát biểu bày tỏ quan điểm của mình mà không hợp với quan điểm của những người lãnh đạo cộng sản thì sẽ bị buộc tội hữu khuynh, bị lăng nhục thô bạo và bị trừng phạt nặng. Một trong số những người như thế là giáo sư Trương Thành Đô. Năm 1957 người ta buộc tội ông hữu khuynh và tống ông đi cải tạo trong trại lao động khổ sai. Ông được phục hồi hai mươi năm sau đó và khi được tự do thì thành một ông già thiểu não, không nơi nương tựa.
Tuy nhiên trong những năm đầu tiên, trước khi bắt đầu đàn áp hàng loạt, tôi cảm thấy rằng những người cộng sản điều hành đất nước là hoàn toàn tự nhiên và đúng đắn. Tôi khâm phục đảng của họ. Toàn thể nhân dân Trung quốc đặt niềm tin vào đảng. Tại úc tôi gần như người mù được người ta dẫn đến tương lai tươi sáng. ý tưởng xây dựng một mặt trận thống nhất đã trở thành ngôi sao dẫn đường cho tôi. Tài năng bác sĩ của tôi cần cho đất nước. Chúng tôi, trí thức, sẽ được trọng dụng và thậm chí còn được tham gia điều hành đất nước. Tôi nhìn thấy một số hành động của những người lãnh đạo cộng sản đi ngược với những nguyên tắc mà đảng đề ra, nhưng cho rằng đó chỉ là sai sót nhỏ và mà thể tránh khỏi.
Một người bạn sống với tôi ở Hồng Kông, giới thiệu tôi một người tên là Dương. Ông này có chức vụ trong giới lãnh đạo đảng và phụ trách vấn đề lôi kéo các nhà chuyên môn từng bỏ ra nước ngoài quay trở về Trung quốc. Anh bạn thân khuyên tôi nên biếu cho Dương một món quà để ông ta đảm bảo việc trở về Trung quốc được tốt đẹp. Nhờ ông Dương, anh có thể kiếm được một công việc thu nhập cao ở một trường y khoa ở Bắc Kinh. Một chiếc đồng hồ Thụy sĩ không phải là món quà tồi với ông ấy. Để được ông ấy cho về làm ở Bắc Kinh, thì việc trả một món quà như thế cũng không phải là quá đắt.
Chẳng lẽ ông Dương mà cũng nhận những khoản tiền hối lộ bẩn thỉu từng được coi là nguồn gốc làm giàu ở Trung hoa hàng nghìn năm nay. Tôi nghĩ rằng nạn tham nhũng là xa lạ với những người cộng sản, khi mà họ đã thức tỉnh được hàng triệu người đứng dậy chiến đấu chống Quốc dân đảng, và thế là tôi từ chối đưa quà cho ông Dương. Người cộng sản không bị mua chuộc – tôi nói với các bạn – và tôi sẽ tự kiếm tiền để sống bằng khả năng và trí tuệ của mình.
Về sau tôi không gặp Dương nữa. Nhưng một thời gian sau ông Dương xuất hiện trên chính trường với tư cách là người lãnh đạo đảng dân chủ. Thực tế đây là thủ đoạn chính trị đối với dân chủ. Dương chưa bao giờ ra khỏi hàng ngũ đảng cộng sản Trung quốc và làm việc bí mật ở bộ công an. Trong Hội đồng hiệp thương chính trị nhân dân nhiều thành viên đeo mặt nạ dân chủ.
Năm 1956 tôi kể cho Mao câu chuyện về ý nghĩ hối lộ Dương. Chủ tịch cười phá lên: Vì sao các anh, lũ trí thức ăn bám lại keo kiệt đến thế nhỉ? Anh như người trên trời rơi xuống, anh phải biết tính tham lam của con người chứ. Cá không thể sống trong nước sạch được. Món quà chẳng mang một giá trị nào cả. Chẳng lẽ Quách Mạc Nhược không tặng được tôi chiếc đồng hồ khi hội đàm ở Trùng Khánh hay sao?
Mùa thu 1949 Hồng Kông giống như ong vỡ tổ. nhưng tôi còn trẻ, bồng bột và ảo tưởng và ảo tưởng. Tôi trở về tổ quốc và nhận việc tại một bệnh viện đa khoa lớn ở Bắc Kinh. Tôi có thể sống xứng đáng với truyền thống gốc gác của tôi và tin vào lời thề của Hyppocrat chữa bệnh và cứu tất cả đồng bào giàu cũng như nghèo. Tôi sẽ trở thành nhà phẫu thuật nơ-ron xuất sắc. Y học là kho báu của tôi đẻ xây dựng nước Trung hoa mới, thịnh vượng và hùng mạnh, không có bất công và thối nát.
Chúng tôi cùng Lý Liên rời Hồng Kông về Bắc Kinh vào giữa tháng sáu 1949. Tính ra tôi xa thành phố chôn rau cắt rốn này gần 17 năm.

Thứ Hai, 30 tháng 11, 2009

Tâm sự của một ông bố...





Con đã khóc hai lần do nước Mỹ,
 Những lần kia bố không biết do ai…

Thời gian thấm thoát trôi nhanh, mới đó mà đã năm năm từ ngày con đặt chân lên nước Mỹ.
 Mười bẩy tuổi nhưng với bố mẹ, con vẫn còn thơ dại. Bởi vậy khi nghe tiếng con trong điện thoại: bố ơi rồi chỉ là từng hồi khóc nức nở.
Bố nghe tim mình thắt lại từng hồi, không biết con bé nó bị gì.
 Mãi cho đến khi con ngừng khóc thì bố mới biết là con bị giật cái bóp.
 Chả là chiều thứ bẩy nhỏ bạn cùng phòng người Mỹ, chở con bé đi siêu thị mua đồ ăn và những thứ cần dùng trong một tuần.
 Khi hai đứa vừa ra gần tới chổ xe đậu, thì ở đâu lù lù hiện ra mấy thằng Mễ, nó giật béng cái bóp con bé đang đeo ở vai.
Thế là khóc nức nở, khóc cho tới khi nói chuyện với bố vẫn còn khóc.

Năm năm sau, đang đi trên đường con lại gọi: bố ơi mẹ sao rồi? Vừa trả lời mẹ con rớt rồi, thế là lại khóc. Con gái sao lại hay khóc thế nhỉ?

Nhưng gẩm lại thì cũng phải, xa mẹ, xa gia đình đã 5 năm.
 Nỗi nhớ nhà cứ mãi lớn dần, cho đến khi học xong thì lại may mắn kiếm được việc làm liền.
 Thế là kế hoạch về thăm nhà lại phải hũy bỏ, lập tức kế hoạch B được thực hiện.
Nhưng một lần nữa trời không chìu con vậy.
 Thằng Mỹ phỏng vấn mẹ, nó cứ chăm chăm bảo, con bà là con một, do đó không có gì bảo đảm bà sẽ quay về.

 Hic hic, nó không coi cái thằng chồng nầy có cờ ram nào.

 Vậy đó, chỉ có thế là nó từ chối cấp visa.
 Hết khóc lại giận dỗi đòi về VN luôn, thế là lại phải khuyên can hết lời.
 Thôi ráng đi làm, chờ có thẻ xanh hãy về.
 Rồi nào là VN bây giờ nước ngập, lô cốt, kẹt đường, tai nạn giao thông dử lắm.
Rồi lại giận dử nhắc lại, về VN thì tới bao giờ con mới mua nổi căn nhà mà trả lại cho bố mẹ.

 Chả là hồi đó để có chi phí cho nó tỵ nạn giáo dục, gia đình tôi đã phải bán căn nhà đang ở, kéo nhau về ở ké nhà ngoại.
 Mà nghỉ cũng đúng, nếu về VN thì làm sao con mua nỗi căn nhà với đồng lương hiện nay và mức chi phí cao ngất trời.
 Mỗi tháng cứ quay như chong chóng khi đám hóa đơn bay về tới tấp.

Rồi con sẽ ra sao khi mọi thứ trật tự theo thói quen của con bị đánh mất, không xếp hàng, không có không gian bình yên và khoảng lặng khi cần.

Hãy ở lại đấy, mua một căn nhà, thi quốc tịch và rước bố mẹ qua để trốn tránh nỗi sợ hải từng giờ.

Để bố không phải mỗi khi có chuyện đi ra ngoài, về tới nhà mới thở phào nhẹ nhỏm ta vẫn còn nguyên vẹn.

Để bố mẹ tránh phải nhìn mấy anh mặc đồng phục, và cả không đồng phục nhẹ nhàng thoải mái thò tay vào ví nhón lấy mấy tờ.

 Để không còn lên máu khi có việc ra quan, không áy náy khi cướp đường, tranh chạy như một thằng điên.

 Bố không muốn làm Việt kiều yêu nước, bố chỉ muốn là người đi ở ẩn phương xa, ôm nỗi nhớ nhà quắt quay trong dạ.

Thứ Bảy, 28 tháng 11, 2009

Bác sỹ riêng của Mao - tiếp theo

Cuộc đấu đá chính trị trong thời gian nhà độc tài lâm bệnh, bây giờ lại chuyển sang lãnh vực giấy tờ của Mao và tài liệu cá nhân. Giang Thanh cùng với Mao Viên Tân là những người đầu tiên có mặt trong nhà lãnh tụ. Như trước đây, Trương Ngọc Phượng là người quản lý giấy tờ. Giang Thanh và Viên Tân thuyết phục cô ta đưa giấy tờ của Mao cho họ. Đặc biệt họ chú ý tới các ghi chép buổi hội đàm của Mao trong chuyến đi của ông đến miền Nam Trung quốc từ 14 tháng 8 tới 12 tháng 9 năm 1971, đêm hôm trước cái chết của Lâm Bưu, khi thất bại đã bay cùng gia đình đến Liên-xô. Những cuộc nói chuyện và cả những phát biểu của Mao không tìm thấy, nhưng người ta biết là trong đó Mao không những đề cập phê bình hành động cực đoan của Lâm Bưu và chiến hữu của hắn, mà còn đưa ra những đánh giá những người lãnh đạo khác của đảng cộng sản Trung quốc, gồm cả Giang Thanh và bè đảng bà ta – Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn và Diêu Văn Nguyên, sau này gọi là bè lũ 4 tên.
Uông Đông Hưng, phụ trách việc giữ gìn giấy tờ Mao, đảm trách an ninh trong phòng, nơi nhân dân từ gĩa lãnh tụ của mình. Hàng chục nghìn người được sàng lọc kỹ càng về an ninh để rồi được vinh dự vĩnh biệt Chủ tịch. Trong ngày quốc tang các lãnh đạo cao cấp Trung quốc đứng quanh quan tài Mao. Vì thế Uông không có thời gian theo dõi giấy tờ của Mao, và ông không biết ý đồ của Giang Thanh nhặt giấy tờ của chồng bà. Cận vệ riêng của Mao là Trương Diêu Tự báo cho Uông. Uông Đông Hưng vội gặp Trương Ngọc Phượng và nói trách nhiệm của cô là bảo quản giấy tờ của lãnh tụ, không được nghiêng ngả bên này bên kia! Đó là tài sản Ban chấp hành trung ương đảng và phải nằm ở đây, trong nhà của ông, không ai được phép mang đi.. Trương Ngọc Phượng khóc thút thít.
- Đồng chí Giang Thanh – ủy viên Bộ chính trị và là vợ của Mao Chủ tịch, Viên Tân – người liên lạc của ông với Bộ chính trị và cũng là cháu. Tôi không thể cản họ. Phải làm gì bây giờ?
- ừ – Uông nói – tôi sẽ cử người đến và sẽ kiểm tra lại tất cả giấy tờ có mặt, nhưng phía cô phải yêu cầu Giang Thanh trả lại tất cả giấy tờ đã lấy đi.
Tuy nhiên Giang Thanh từ chối trả lại, Hoa Quốc Phong phải can thiệp.
- Xác Mao của Chủ tịch còn chưa nguội mà các ông đã định áp bức tôi – Giang Thanh phẫn nộ.
Về sau Uông Đông Hưng nói cho tôi rằng một số giấy tờ bị lấy mất hoặc bị thay thế. Có khả năng Giang Thanh đã vứt bỏ các giấy tờ phê bình bà ta.
Tôi bắt đầu chọn người cho đề án bảo quản lâu dài xác lãnh tụ. Trong tay tôi có hơn 20 chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực giải phẫu, bệnh lý và hoá hữu cơ. Họ từ các miền của đất nước.
Chúng tôi chú ý phương pháp cổ truyền bảo quản. Một số bộ phận có thể giữ hàng trăm năm. Tuy nhiên chúng tôi hiểu rằng thi hài Mao được tiến hành khác đi. Người ta ướp các xác cổ chôn sâu trong lòng đất nơi không có oxy. Xác được bao bọc một lớp sáp và được đặt vào trong một chất lỏng giống thủy ngân. Khi mang ra ngoài không khí thì rữa ngay trước mắt.
Người ta cũng biết rằng bảo quản thi hài Lê nin ở Moskva như thế nào, nhưng quan hệ với Liên-xô là xấu và thậm chí không thể đi đến đó được, và cũng không thể nói chuyện được. Chúng tôi gửi hai người đến Hà nội – nơi đó bảo quản thi hài của lãnh tụ của nhân dân Việt nam Hồ Chí Minh. Nhưng chuyến đi không kết quả. Việt nam từ chối chia xẻ kinh nghiệm và thậm chí họ còn chẳng thèm cho các nhà khoa học Trung quốc xem thi hài Hồ Chí Minh. Theo tin mật, thì mũi Hồ Chí Minh đã bị rữa, râu cũng hỏng.
Lại hai người được gửi sang viện bảo tàng người sáp của bà Tusso bên Anh. Nhưng người Trung quốc cũng không kém kinh nghiệm trong việc làm hình nộm như vậy. Thi hài Mao làm bằng sáp do viện nghệ thuật trang trí ứng dụng Bắc Kinh làm ra cũng rất giống với lãnh tụ lúc sống. Ngay cả người ở bảo tàng Anh cũng không làm giống đến như thế.
Chúng tôi xem nhiều tạp chí khoa học và đi đến kết luận rằng có thể bảo quản được thi hài Mao. Nhưng để làm điều đó cần phải hoàn thiện phương pháp chúng tôi đưa ra. Vì không muốn cưa sọ, chúng tôi quyết định giữ óc Mao. Nội tạng gồm tim phổi, dạ dày thận gan, sinh dục phải lấy ra. Chúng tôi quyết định bảo quản chúng trong các bình riêng biệt chứa đày formaldehyde. Đề phòng trường hợp ai đó lật lại nguyên nhân cái chết của Mao. Bụng sẽ nhồi bông tẩm formaldehyde. ở cổ sẽ đặt một cái ống đặc biệt theo chu kỳ đưa dung dịch vào. Trong quan tài thuỷ tinh sẽ bơm khí hê-li. Tất cả công việc sẽ bắt đầu sau khi kết thúc lễ tang và tiến hành trong điều kiện cực kỳ bí mật. Chương trình của chúng tôi nhận tên gọi đề án bí mật 19 tháng 5.
Ngày 19 tháng 5 liên quan tới cuộc xung đột biên giới giữa Trung quốc và Liên-xô ở đảo Trương Bảo (đảo Đại Mãn) nằm phía bắc tỉnh Hắc Long Giang. Hoạt động vũ trang bắt đầu từ ngày 2 tháng ba 1969, chính khi đó Mao cho rằng đe doạ an ninh Trung quốc không xuất phát từ Mỹ mà là từ Liên-xô, điều đó dẫn đến khai thông trong quan hệ Mỹ và Trung quốc.
Chính phủ kêu gọi nhân dân Trung quốc xây hầm trú ẩn, tích trữ lương thực, và không bao giờ tàn sát dân tộc khác. Từ đó suy ra rằng Trung quốc – đất nước yêu hoà bình, luôn sẵn sàng giáng trả kẻ thù. Dân chúng tất cả các thành phố được động viên đắp hầm tránh bom chống xâm lược Xô Viết. Bắc Kinh đến giờ vẫn giữ được nhiều hào dưới lòng đất, đủ để toàn bộ dân Bắc Kinh chui xuống đất sau ba phút.
Trong thời gian dân Bắc Kinh làm hầm tránh bom, bộ phận kỹ thuật của Quân đội Trung quốc xây dựng dưới lòng đất một công trình lớn mang tên tổ hợp bí mật 19 tháng 5, bởi vì chính ngày 19-6-1969 đã thông qua quyết định xây công trình ngầm khổng lồ này dùng cho lãnh đạo cao cấp quân đội trong thời kỳ chiến tranh. Đã xây được một đường ô-tô ngầm 4 làn đường để chạy. Nó nối Trung Nam Hải, Thiên An Môn, toà nhà Hội nghị đại biểu toàn Trung hoa, dinh cựu bộ trưởng quốc phòng Lâm Bưu ở Mao Tần Vũ và bệnh viện trung ương giải phóng quân Trung quốc ở trung tâm Bắc Kinh với vùng tây thành phố, phần đông các sĩ quan chỉ huy sống ở đó. Ngoài sở chỉ huy dưới đất còn xây các toà nhà phục vụ khác, tiến hành đàm thoại, điện báo, nhà cửa, bệnh viện thiết bị hiện đại dùng khi chiến tranh. Bệnh viện đặc biệt này, đặt trực tiếp dưới trung ương mà tôi lãnh đạo nó, trở thành trung tâm nghiên cứu để thực hiện đề án bí mật của chúng tôi.
Tuần lễ tang kết thúc, và 17 tháng 9 1976 sau nửa đêm khi toàn bộ Bắc Kinh ngủ ngon, chúng tôi chuyển xác Mao từ phòng vào xe microbus và theo đường phố tối đen Bắc Kinh vào Mao Tần Vũ, bỏ trống sau khi Lâm Bưu chết. Trong microbus, tôi ngồi cạnh quan tài, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng ngồi xe của mình. Một hàng rào lính cưỡi mô tô được vũ trang đến tận răng. Ngoài chúng tôi, bộ trưởng và thứ trưởng bộ y tế và nhóm chuyên viên thực hiện đề án cũng đến đó.
ở lối vào tổ hợp, chúng tôi gặp toán bảo vệ. Họ được nói trước và để cho chúng tôi vào tiếp.
Qua đường hầm chúng tôi đến một bệnh viện đặc biệt nằm dưới lòng đất. Sau mười phút đoàn xe dừng lại. Chúng tôi chuyển xác Mao vào một trong những bệnh viện mổ, nơi nhóm tôi sẽ làm việc.
Vài hôm sau, hình giả Mao bằng sáp được mang đến. Họ đặt ở buồng bên cạnh, nơi tôi thấy nó lần đầu tiên. Các nhà nặn tượng thật là giỏi, Mao như còn sống.
Về hai xác Mao – một trong formaldehye và một Mao khác nặn bằng sáp ít người biết. Hai xác đó nằm trong bệnh viện gần một năm, và mỗi tuần một lần tôi tới đó để kiểm tra. Thậm chí lính canh bệnh viện cũng không biết họ giữ của quý gì bên trong.
Năm 1977, người ta tiến hành sửa chữa lăng trên quảng trường Thiên An Môn. Cả hai Mao và các bình chứa nội tạng đã được đặt vào lăng và ở trong một bể lớn nằm dưới phòng lớn. Phần nền giữa gian nơi đặt quan tài thuỷ tinh thực tế là một chiếc thang máy, để khi cần có thể hạ xuống bể. Giáo sư Ngô Thanh, khoa bệnh lý Viện hàn lâm y học, người tham gia vào việc ướp xác Mao, phụ trách việc xem xét cả hai xác Mao theo dõi trật tự trong lăng để hàng ngày hàng chục nghìn thường dân Trung quốc và khách du lịch vào thăm. Họ đến chiêm ngưỡng con người đáng kính đã lãnh đạo đảng cộng sản Trung quốc suốt 40 năm.
Lễ truy điệu Mao tổ chức ngày 18 tháng 9. Chính hôm đó tôi chở thi hài ông vào hầm chứa đặc biệt. Nóng bức ngột ngạt, nhưng tôi nhưng tôi có mặt ở Thiên An Môn lúc hai giờ chiều – một giờ trước khi lễ khai mạc.
Thiên An Môn nghĩa là Cổng trời thanh bình. Thời trước cổng này là lối ra phía nam Cấm Thành, chỗ ở các hoàng đế đời Minh và Thanh trong suốt 450 năm. Trên quảng trường như trước đây đầy chân dung Mao, chụp đầu những năm 1950. Cả hai phía chân dung kết đầy các khẩu hiệu cách mạng kêu gọi đoàn kết vô sản quốc tế và chúc Cộng hoà nhân dân Trung hoa 10 năm giàu có và hùng mạnh.
Trong 30 năm lại đây, tính từ ngày tôi quay về Trung quốc tôi thường có mặt trên quảng trường Thiên An Môn. Tôi ở đây ngày 1 tháng 10 năm 1949, ngày thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa. Sau đó một thời gian, đã cùng với Mao – trong ngày lễ duyệt binh hai lần trong năm: 1 tháng 10 và 1 tháng 5. Trong những năm bão tố Cách mạng văn hoá (1966-1976) tôi có mặt cùng Mao trong ngày lễ, nơi mà hàng triệu hồng vệ binh từ các trường trung học và đại học cả nước kéo về chúc mừng Mao. Ngày nay trên quảng trường lớn, nối tới phía nam Thiên An Môn giáp toà nhà của tổ chức cao nhất của chính quyền quốc gia – Hội nghị đại biểu nhân dân toàn Trung quốc. Từ phía đông tới quảng trường ngăn cách bởi toà nhà bảo tàng lịch sử cách mạng.
Gần đến giờ mặc niệm. Trên quảng trường tụ tập khoảng nửa triệu người được chọn trong các tập thể kiểu mẫu. Đủ các loại người và đủ các lứa tuổi. Ba giờ đúng, toàn đát nước Trung quốc lặng ngắt. Trong ba phút, các nhà máy xí nghiệp dừng việc, còi nhà máy cùng còi tầu thuỷ vang lên như một bản hợp xướng. Sau đó là mặc niệm quan tài.Trong nước tại thời điểm này tiến hành mít tinh truy điệu. Cuối cùng Vương Hồng Văn khai mạc buổi lễ. Liếc lên đám đông tôi bỗng thấy toát mồ hôi lạnh. Mệt mỏi kéo dài vài tháng bỗng nhiên giảm hẳn trong tôi. Hoa Quốc Phong bắt đầu đọc diễn văn, tôi vất vả mới đứng được.
Sau khi phát cơn bệnh tim đầu tiên của Mao, tôi ở quanh ông suốt ngày đêm. Tôi không ngủ hơn ba giờ mỗi đêm. Tôi giảm từ 77 xuống 55 cân. Tôi sống lờ đờ và biết rằng tôi chỉ được ngủ khi tất cả kết thúc. Có thể, thậm chí tôi không thể quay về nhà mình.
Sáu giờ rưỡi tối tôi trở về buồng mình ở Trung Nam Hải, thả người vào ghế bành và ngủ túc thời.
Một phút sau, chuông điện thoại đánh thức tôi. Uông Đông Hưng gọi. Uông thông báo rằng sau 4 ngày nữa sẽ có cuộc họp Bộ chính trị. Mọi người sẽ chờ kết luận tỷ mỷ về bệnh, cách điều trị và nguyên nhân chết của Mao. Tôi cần phải đọc báo cáo, tất cả các nhân viên y tế điều trị lãnh tụ nhất thiết phải có mặt tại phòng họp. Đây là cuộc họp rất quan trọng – Uông nhấn mạnh – Anh cần phải chuẩn bị. Hôm sau tên tôi xuất hiện ở các tờ báo trung ương. Tôi được giới thiệu như là lãnh đạo nhóm bác sĩ chữa chạy cho lãnh tụ.
Nghĩa là tôi nằm dưới sự nghi ngờ. Niềm vui của tôi đã quá sớm. Bài thông báo dành cho dân chúng. Bây giờ Bộ chính trị họp để tìn nguyên nhân cái chết của lãnh tụ. Nếu báo cáo của tôi được chấp nhận, thì trong kết luận chính thức người ta viết rằng Mao chết tự nhiên, và việc nghi vấn bác sĩ sẽ bị gạt đi. Trong trường hợp ngược lại thì quả là nguy hiểm cho tất cả chúng tôi. Thực chất là sống hay chết.
Tôi họp tất cả anh em, và chúng tôi đồng ý rằng tôi soạn báo cáo, nhưng sau đó chúng tôi lại họp lại và chúng tôi sẽ thảo luận tất cả.. Tôi ngay lập tức ngồi làm việc. Suốt đêm và sáng hôm sau tôi viết và viết. Bài viết nhận được tương đối ấn tượng – khoảng 50 trang. Nó bắt đầu từ việc cố gắng cứu Mao sau khi nhịp tim bị say thoái vào tháng giêng 1972. Tiếp theo là mô tả sự suy sụp từ từ sức khoẻ sức khoẻ của Chủ tịch và ba vụ nhồi máu tim. Tôi giải thích chẩn bệnh như thế nào, chạy chữa ra sao và nguyên nhân nào dẫn tới chết. Đồng nghiệp của tôi đã làm những thay đổi và bổ xung cần thiết. Cuối cùng thì ngày 20 tháng 9 bản báo cáo làm xong.
Uông Đông Hưng từ chối xem và yêu cầu tôi đưa cho Hoa Quốc Phong. Đọc qua, Hoa Quốc Phong nhận xét rằng trong đó những thuật ngữ y học, các ủy viên Bộ chính trị sẽ không hiểu được. Ông cũng nhấn mạnh rằng trong báo cáo không nói rõ ràng về nguyên nhân cái chết và yêu cầu có bổ xung cần thiết.
Các bác sĩ chống việc dịch thuật ngữ y học sang ngôn ngữ thường, bởi vì làm điều đó rất khó, và trong nhiều trường hợp là không thể dịch được. Họ cũng phản đối việc nêu ra nguyên nhân nào đấy của cái chết. Mao già quá, và nhiều bệnh. Ngoài ra, họ còn nhấn mạnh tới việc phá huỷ hệ thống hô hấp, bệnh tim do phổi gây ra và phá huỷ chức năng tải máu lên não. Tôi chỉnh lại báo cáo và 21 tháng 9 gửi cho Hoa Quốc Phong đồng thời nói rõ ý kiến của đồng nghiệp chúng tôi. Hoa Quốc Phong nhắc nhở tôi là một số ủy viên Bộ chính trị sẽ hỏi nhiều và tôi cần cố gắng cung cấp cho họ những câu trả lời để tất cả cùng hiểu.
Sáng 22 tháng 9, tôi với các đồng nghiệp có mặt ở phòng họp, thì mọi người đã tề tựu rồi. Các ủy viên Bộ chính trị ngồi trong ghế bành đặt lộn xộn trong phòng. Trước mặt mỗi người có bàn trà nhỏ. Trong phòng có một số người tốc ký thuộc Ban chấp hành trung ương, và một số người trẻ nữa. Tôi ngồi vào ngồi vào ghế sau lưng thủ tướng Hoa Quốc Phong và nguyên soái Diệp Kiếm Anh, người đề nghị làm Mao bằng sáp. Trần Tử Lăng, chỉ huy quân sự quân khu Bắc Kinh phát biểu Tôi không thể đảm nhận trách nhiệm, đề nghị cho tôi thôi chức vụ này – ông nói.
- Bình tĩnh đã, đồng chí Tử Lăng – Hoa nói – Chúng tôi giải quyết việc đồng chí sau. Bây giờ chúng ta nghe báo cáo của nhóm bác sĩ chữa Mao. Họ đã bốn tháng liền trực phục vụ ngày đêm quanh giường lãnh tụ để cứu sống Mao. Xin mời bác sĩ Lý phát biểu.
Đến tận giờ, tôi chẳng hiểu vì sao Trần Tử Lăng xin từ chức.
Diệp Kiếm Anh nhắc tôi nói to hơn. Một số ủy viên Bộ chính trị tương đối già và nặng tai. Trong thời gian phát biểu, họ đã ngắt tôi nhiều lần và đề nghị giải thích thuật ngữ này, thuật ngữ kia.
Khi tôi bắt đầu kể về sự suy giảm nhanh sức khoẻ Mao từ tháng sáu 1976, đột nhiên tướng Hứa Thế Hữu đứng lên và dạng bộ hung hăng tiến lại.
- Vì sao trên thân thể Mao có những vết tím? – ông hỏi, mắt đưa về phía tôi để nhấn mạnh – Nguyên nhân nào xuất hiện nó?
Cần lưu ý rằng người Trung quốc kiêng kỵ cho rằng xuất hiện nốt như thế trên thân thể người quá cố là biểu hiện sự đầu độc.
Tôi giải thích điều này như sau:
- Trong những ngày cuối đời, lãnh tụ khó thở. Cơ thể thiếu ôxy. Vì thế trên thân thể xuất hiện vết tím.
Hình như Hứa Thế Hữu không thỏa mãn câu trả lời của tôi và tiếp tục:
- Cả cuộc đời tôi tham gia nhiều trận chiến đấu và thấy nhiều xác chết, nhưng không xác nào tôi gặp lại có những vết như thế. Ngày 9 tháng 9 tôi thấy nó trên thân thể của Chủ tịch, hỏi các ông, bác sĩ Lý, có bao nhiêu ga-ma trong cơ thể Mao, tuy nhiên các ông không thể trả lời tôi lúc đó. Và bây giờ tôi cảm thấy rằng Chủ tịch bị đầu độc. Chỉ có chất độc mới dẫn đến xuất hiện những vết này. Chúng tôi phải hỏi bác sĩ và y tá và giải thích, ai đầu độc Mao.
Từ ngày đầu thành lập nước cộng hoà nhân dân Trung hoa đã hình thành hệ thống bảo vệ rất cẩn thận tránh cho Mao bị đầu độc. Tôi kể về hệ thống này cho Hứa Thế Hữu.
- Trước khi đưa cho Mao bất kỳ thuốc gì, chúng tôi phải thử nó ngay trên bản thân – tôi nói – Tất cả đơn thuốc đều ghi trong sổ đặc biệt. Và mỗi thứ đều được hai y tá ký và có bác sĩ trực xác nhận. Thuốc được cung cấp theo đường đặc biệt chỉ dùng cho giới lãnh đạo đảng của Trung quốc. Thuốc luôn luôn chứa trong hộp niêm phong và chỉ cấp phát theo lệnh bác sĩ chữa Mao.
- Âm mưu có thể một người bất kỳ trong số các anh làm chứ – Hứa nói thêm – Chúng tôi cần kiểm tra cẩn thận.
Hứa Thế Hữu tin thành tâm tin rằng cái chết Mao là do một hành động có tính toán. Ông nghi rằng người tổ chức có thể cả Giang Thanh với chiến hữu của mình. Hứa biết rõ rằng quan hệ của tôi với Giang Thanh bị xấu đi từ rất lâu, và dù vậy cho rằng tôi và đồng nghiệp của tôi có thể dính líu vào âm mưu chống lãnh tụ.
Khi Hứa kết thúc, trong phòng lặng ngắt. Ông đứng đối diện tôi, mặt giận dữ. Sau đó ông nhìn vào Trương Xuân Kiều, nhưng ông này lờ đi. Giang Thanh, trong bộ áo tang, ngồi trên đi văng. Hoa Quốc Phong cứng người trong sự lúng túng. Uông Đông Hưng đang làm giả bộ đọc một tài liệu gì đó. Vương Hồng Văn nhìn khắp phòng, lộ vẻ lo lắng.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh và tướng Lý Đan Sâm tư lệnh quân khu Chiết Giang, quay lại phía tôi và hỏi nhỏ: Vết tím ấy từ đâu ra thế?. Tôi trả lời:
- Phía phổi trái chủ tịch có ba lỗ bọt khí lớn, cản trở cả hai phổi. Mao rất khó thở và rất thiếu ôxy. Những vết ấy gọi là những vết xác chết và thường xuất hiện gần 4 giờ sau khi cái chết. Khi đồng chí Hứa Thế Hữu thấy xác đã 16 tiếng rồi.
Vợ goá Mao đứng dậy nói:
- Đồng chí Hứa Thế Hữu, các bác sĩ vật lộn vì cái sống của lãnh tụ tròn bốn tháng. Cớ gì đồng chí không cho cho bác sĩ Lý nói hết báo cáo của mình?
Hứa tiến gần Giang Thanh và đấm tay xuống bàn. Tách chén rơi xuống thảm.
- Ai cho phép đồng chí chặn họng các ủy viên Bộ chính trị trong khi họp? – Hứa tức giận – Đừng có mà nhiễu sự.
Hoa Quốc Phong can:
- Đồng chí Hứa, bình tĩnh đã – Sau đó quay về phía tôi và nói:
- Bác sĩ và các đồng nghiệp tốt nhất là dời khỏi đây. Chúng tôi sẽ xem xét vấn đề sau.
Tôi đợi bị gọi bất kỳ lúc nào. Ăn sáng xong, tôi kể lại lời của Hứa Thế Hữu cho cho đồng nghiệp của mình. Họ đã sửng sốt và phẫn nộ đến mức không đi ăn trưa. Tôi đợi chờ lời buộc tội tham gia giết Mao. Đáng ngạc nhiên là nó thốt ra từ miệng Hứa Thế Hữu, và Giang Thanh lại bảo vệ chúng tôi, dù rằng tôi nhớ rõ sự công kích bác sĩ của bà ta trong những ngày cuối cùng của Mao. Tôi đoán thế. Nếu chiến hữu của Giang Thanh – Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều – giúp bà theo dõi bác sĩ, thì họ cũng có phần lỗi do sai lầm có thể xảy ra của bác sĩ. Và nếu Bộ chính trị quyết định rằng có âm mưu và đầu độc Mao, thì hai người này khó tránh khỏi bị tội. Chính thế Giang Thanh bảo vệ bác sĩ.
Ngày tháng qua không thấy Bộ chính trị đưa lại tin tức gì cả. Tôi biết rõ rằng cuộc đấu đá chính trị ở Trung Nam Hải chỉ mới bắt đầu. Hai tháng trước, tháng sáu, Uông Đông Hưng nói cho tôi rằng đã nghĩ tới việc bắt Giang Thanh, không chờ Mao chết. Uông Đông Hưng trong quan hệ nhiều mặt với Giang Thanh và luôn giữ lịch sự với bà ấy, tôi cảm thấy rằng sớm muộn thì họ cũng bắt Giang Thanh. Dù rằng Giang Thanh cư xử dường như quyền lực trong tay bà, bà ta nên bớt thở những lời nguy hiểm. Và khi cuộc đấu đá chưa ngã ngũ, tình thế của các bác sĩ còn rất mong manh. Lời buộc tội và phản buộc tội trong cái chết của Mao sẽ phục vụ cho con chủ bài trong mánh khóe bẩn thỉu.
ở Trung Nam Hải tôi biết số phận thay đổi như thế nào. Tôi tròn 22 năm theo dõi theo dõi sức khoẻ, bệnh tật và cuối cùng cả cái chết của Mao, và sự nguy hiểm sẽ theo đuổi tôi tất cả những ngày còn lại.

Câu chuyện của lòng người



Trong cuộc họp tổ dân phố hôm qua (đại hội đại đoàn kết gì đó), không biết vì lý do gì mà người ta đã không cho bạn tôi phát biểu, để vận động bà con đóng góp cho gia đình người bị nạn. Chắc họ sợ đại hội thất bại vì còn thiếu sót, để cho người bị nạn mà không giúp chăng?
Còn nhớ cách nay mấy năm, cũng có một người chết mà lại được tuyên dương như anh hùng. Cũng tại tổ dân phố này, phường nầy. Nào là phường, quận và cả thành phố xuống tuyên dương truy điệu, báo chí rùm beng mấy ngày liền. Chỉ có người dân tại chổ biết chuyện thì lắc đầu ngao ngán.
Nguyên anh chàng phường đội phó, tối đó uống rượu say đang ngủ ở nhà thì lãnh đạo phường điện báo là có người nhậu say đang quậy, đang xĩn xuống tới hiện trường thì thằng cha quậy quăng trái lựu đạn, anh ta nhào ra ôm trái vì tưởng chưa rút chốt, thế là bùm đi luôn, thật lảng xẹt.
Hai con người, hai thân phận khác nhau, thì cách đối xử cũng khác nhau. Một người chết đi, để lại gánh nặng cho địa phương. Còn người kia cái chết lại được tận dụng như một cách PR cho tinh thần cách mạng.
Vâng, câu chuyện này thật là một bi hài kịch xã hội chủ nghĩa.

Thứ Tư, 25 tháng 11, 2009

Bác sỹ riêng của Mao (tiếp theo)

Tôi hoàn toàn nhận ra rằng người ta có thể buộc tội tôi giết lãnh tụ. Nhà tôi năm đời là thày thuốc. Người ta kể cho tôi rằng trong thời nhà Thanh, trong những năm cai trị của thái hậu Từ Hy, cụ tôi là người rất được kính trọng. Thậm chí người ta đã mời cụ từ quê ra cung vua để làm ngự y. Một cụ tổ khác cũng chữa cho Đồng Trị và sau đó cũng trở thành thày thuốc trong cung.
Người ta kể rằng hoàng đế Đồng Trị thích vi hành. Vua cải trang và đi vào nhà dân trong các ngõ hẻm phía nam Cấm Thành. Gia đình tôi kể là cụ tôi phát hiện ra hoàng đế Đồng Trị bệnh lậu. Thái hậu Từ Hy đã giận dữ vì chẩn bệnh như vậy. Bà tóm tóc vật xuống sàn nhà và lăn lộn, bắt ông tôi phải chữa cho Đồng Trị khỏi bệnh. Chẳng bao lâu Đồng Trị chết, và cụ tôi bị đuổi khỏi hàng ngũ thày thuốc của bệnh viện hoàng cung. Lời buộc tội sai trái vẫn còn gắn với ông đến lúc chết, nhưng người ta bỏ chiếc mũ thày thuốc ngự y vào quan tài ông. Nghề của gia đình tôi vẫn tiếp tục tồn tại và truyền tới thế hệ sau, tuy nhiên do trường hợp của cụ tôi, không ai trong số giòng họ có thể hành nghề trong hoàng cung. Dù thế, chính quyền cao cấp không hiếm khi mượn chúng tôi phục vụ.
Tôi không nôn nóng mong ước trở thành bác sĩ riêng Mao, tuy nhiên hoài bão của tôi chiến thắng lòng tự hào. Đôi lần tôi thử từ bỏ Mao, nhưng nó luôn luôn gọi tôi quay lại. Chỗ tôi làm việc chỉ có gia đình tôi bạn thân được biết thôi. Công tác an ninh của lãnh tụ luôn luôn nguy hiểm vì có những âm mưu gạt bỏ tôi khỏi lãnh tụ. Tất cả những ai biết công việc tôi đầu cảnh cáo rằng tôi có thể chết bất ngờ. Một trong số các chị họ tôi đã nhắc tôi từ năm 1963 rằng: Sức khoẻ của Mao Chủ tịch nằm dưới sự theo dõi của đảng và nhân dân. Nếu ai đó trong số ủy viên Ban chấp hành trung ương tỏ ra không hài lòng về công việc của chú thì họ không tha chú đâu.
Một vài người bạn ngừng thăm tôi. Thậm chí sau khi gia đình tôi rời khỏi Trung Nam Hải khách cũng hiếm khi đến thăm. Một người bạn của tôi ở Côn Minh, tỉnh Vân Nam, là người bạn thân của Đàm Phú Dân, thời gian ấy là chính ủy khu vực Côn Minh. Đàm bị người bảo vệ của chính ông ta xử tử trong Cách mạng văn hoá. Sau đó ai từng có mặt ở nhà Đàm, đều được mời đi thẩm vấn và rồi bị tống vào ngục. Về trường hợp này, cháu tôi cũng đã kể với tôi: May mắn, cháu tôi nhận xét, tôi chưa khi nào ở ngôi nhà này cả. ít lâu sau cô ta ngừng đến thăm tôi.
Tôi khi nào có thể quên lời buộc tội các bác sĩ chữa cho Stalin, về tội mưu sát lãnh tụ Xô viết. Và vì vậy có thể đoán được hành động tương tự trong quan hệ của tôi và y tá điều trị cho Mao. Từ khi Mao gần chết tôi cũng đã âm thầm chuẩn bị ngày bị bắt.
Đầu tháng 9, sau cơn đau tim lần thứ ba của Mao, tôi nhanh chóng chạy về nhà. Tôi vắng nhà đã vài tháng. Tôi chuẩn bị gói quần áo lót và pantô và đồ mặc lặt vặt. Sau đó tôi đi quanh phòng với ý nghĩ từ gĩa nó, bởi vì không còn hy vọng quay trở lại. Vợ tôi đang ở chỗ làm, con tôi ở trường. Sau này vợ tôi kể cho tôi rằng cô ta biết sự xuất hiện của tôi do một bà nói lại. Bà ta kể lại cho vợ tôi là tôi rất vội và có vẻ bồn chồn. Họ cho rằng có một cái gì đáng sợ.
Vì vậy sự thận trọng và doạ của tay bảo vệ đối với tôi hoàn toàn chưa có tác động. Tôi đã chuẩn bị tất cả từ đã lâu. Mao hay nói con lợn chọc tiết không sợ nước sôi. Tôi quẩn quanh trong đầu rằng câu nói thông thái đó ngụ ý cả đến tôi
Trời vẫn tối, tôi gọi về nhà bộ trưởng y tế Lưu Thân Bình và đề nghị gặp khẩn cấp. Tôi không nêu nguyên nhân, chỉ lưu ý rằng cuộc gặp gỡ không có mặt người khác. Lưu Thân Bình là vợ goá của cựu bộ trưởng công an Tạ Phú Trị. Cả hai đều thân cận Giang Thanh. Tôi ngờ rằng Giang Thanh tác động để bổ nhiệm Lưu Thân Bình vào chức vụ bộ trưởng. Tôi biết Giang Thanh mù tịt về y học.
Lưu Thân Bình vẫn ở trong khu Bộ công an, nơi từ lâu có các biệt thự cho người nước ngoài. Ngôi biệt thự mà Lưu Thân Bình đang ở được xây theo phong cách châu Âu cổ, trước kia là toà nhà đại sứ quán nước ngoài. Bà chờ tôi ở phòng khách dường như đang ngái ngủ.
- Mao Chủ tịch đã từ trần lúc một giờ đêm – tôi nói.
Bà bắt đầu thổn thức, nhưng tôi bình tĩnh tiếp tục:
- Chúng ta có nhiều việc, vì vậy đừng mất thời gian. Lãnh đạo mong rằng chúng ta bảo quản thi hài lãnh tụ trong vòng hai tuần lễ. Phải khẩn trương. Họ đang chờ chúng ta.
Bà lau nước mắt:
- Chúng ta cần phải làm gì?
- Chúng ta cần phải tham khảo ý kiến của các nhà khoa học viện hàn lâm y học. Phải tìm ở các khoa giải phẫu và bệnh lý các chuyên gia mà chúng ta cần.
- Được rồi, trước tiên phải gọi Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung tới đã.
Hoàng Thụ Trạch là thứ trưởng bộ y tế, và Lưu Thân Bình thường xuyên trao đổi với ông vì ông có bằng bác sĩ. Dương Trung là bí thư đảng ủy Viện hàn lâm y học.
- Chúng ta không nên phí thời hoài thời giờ trong lúc chờ đợi. Trước tiên chúng ta gọi các chuyên viên đến và sau đó tất cả sẽ gặp nhau ở phòng Dương Trung ở Viện Hàn lâm.
Lưu đồng ý và gọi các chuyên viên, còn tôi đi vào Viện Hàn lâm.
Khi tôi đến thì thấy đang Dương Trung và Hoàng Thụ Trạch ở đó. Cũng có cả các chuyên viên – Trương Bình Thân, giáo sư khoa giải phẫu học và Ngô Thanh, vợ ông, trạc 40 tuổi – giáo sư khoa đại thể. Lưu Thân Bình vẫn chưa thông báo cho họ về lý do cuộc gọi ban đêm, và Trương Bình Thân bối rối nhìn qua cửa sổ.
Sau này tôi hiểu rằng các cuộc gọi như thế xảy ra từ sớm hơn. Trong những năm Cách mạng văn hoá Trương Bình Thân thường bị kéo ra khỏi giường ấm để làm giấy chứng tử về cái chết của người bị tử hình hoặc tự tử. Bởi vì hồng vệ binh thường dính dáng trong những cái chết đó, người ta không muốn đưa vụ việc công khai, nhưng giấy chứng tử cái chết có thể được dùng làm văn bản kết tội cho nên phải cần tới chuyên viên.
Trương Bình Thân bớt chế nhạo đám tiểu tướng Hồng vệ binh. Ông sợ nhất là bị gán cái nhãn phản cách mạng thì mờ đời. Đúng ra đó là bản án tử hình. Mới đây người ta đã gọi ông vào ban đêm để khám thi thể ông cựu bộ trưởng bộ công an Lý Chấn tự sát bằng thuốc ngủ. Do kết luận mà ông ký nên ông đã hai tháng liền phải qua lại đến trụ sở bộ công an và vì thế khi tôi thông báo lãnh tụ từ trần thì bộ mặt Trương trở nên hết lo lắng.
Các chuyên viên nói rằng việc bảo quản thi hài Mao trong vòng hai tuần không phải là phức tạp. Để làm điều đó chỉ cần tiêm hai lít formaldehyde. Hoàng Thụ Trạch và Dương Trung chấp nhận phương pháp này. Trương Bình Thân và Ngô Thanh chuẩn bị bơm tiêm và thuốc và đi cùng tôi vào Trung Nam Hải. Phố xá vẫn còn vắng. Lúc đó là 4 giờ sáng và những tia nắng vẫn chưa xuất hiện. Nhân dân Trung quốc vẫn còn chưa biết lãnh tụ vĩ đại không còn trên đời từ mấy tiếng rồi.
Bộ Chính trị vẫn còn họp. Sĩ quan trưởng bảo vệ nhìn thấy tôi nói là Uông Đông Hưng và nguyên soái Diệp Kiếm Anh mấy lần hỏi tìm tôi. Ông nói thêm là Bộ Chính trị đã thảo xong bản thông báo cho đảng, quân đội và tất cả nhân dân Trung quốc và sẽ được truyền qua đài phát thanh vào lúc 4 giờ sáng.
Tôi nóng lòng chờ thông báo chính thức, bởi vì tôi hiểu rằng sẽ rõ mọi chuyện và liệu người ta có bị buộc tội tôi và các y tá do tôi phụ trách về cái chết của Mao hay không.
- Trong thông báo nói về bệnh và cái chết của Mao thế nào? – tôi lo lắng hỏi.
Ông ta đưa tôi một bản copy.
- Đồng chí tự đọc lấy.
Tôi tóm lấy tờ giấy và dòng đầu tiên lập tức đập vào mắt tôi. Trong đó viết:
… các bác sĩ đã làm mọi thứ có thể, nhưng do tình trạng sức khoẻ của ông không còn hy vọng. Ông qua đời lúc 0 giờ 10 phút ngày 9 tháng 9 năn 1976 tại Bắc Kinh .
Đọc tiếp không có ý nghĩa nữa.. Tôi đã nằm ngoài vòng nghi ngờ rồi. Sau đó vài ngày, 13 tháng 9, tên tôi xuất hiện trên tờ Nhân dân nhật báo ở đó chức danh tôi là lãnh đạo nhóm bác sĩ chữa Mao. Thế là nguy hiểm đã qua.
Ngay khi tôi xuất hiện ở phòng họp mười bảy ủy viên Bộ chính trị, thì Uông Đông Hưng gặp tôi và nói rằng cần thảo luận gấp riêng với tôi. Chúng tôi đi vào phòng nhỏ, Uông Đông Hưng hỏi tôi tôi đã đọc thông báo chưa.
Tôi trả lời rằng vừa đọc được mấy đọan đầu tiên. Uông cười nhạt:
- Bộ chính trị vừa mới chấp thuận quyết định bảo quản thi hài lãnh tụ lâu dài. Đồng chí hãy nghĩ đi làm điều này thế nào cho tốt nhất.
Tôi như bị quay cuồng.
- Nhưng các ông vừa mới nói chỉ chỉ hai tuần thôi. Vì sao các quyết định bảo quản thi hài lâu dài? Năm 1956 chính Mao bằng văn bản đã bày tỏ mong muốn được hỏa táng. Tôi nhớ rõ thế.
- Đây là ý nguyện của Bộ chính trị. Chúng tôi đã thông qua quyết định này mấy tiếng trước đây – Uông Đông Hưng nói thêm là ông và thủ tướng Hoa Quốc Phong đã ủng hộ quyết định này.
- Nhưng cũng cần phải hiểu rằng – tôi nói – thậm chí sắt và thép còn bị thời gian huỷ hoại, nói gì đến xác người chết. Làm thế nào để ngăn cản thối rữa bây giờ được.
Lúc ấy tôi nhớ chuyến đi của mình với Mao năm 1957 tới Moskva và thăm lăng Lê nin và Stalin. Thi hài của họ liên tưởng tới xác ướp Ai cập héo quắt. Người ta kể cho tôi là mũi và tai của Lê Nin đã hoàn toàn bị hỏng và được thay bằng sáp. Bộ râu nổi tiếng Stalin cũng hoàn toàn bị hỏng dù là kỹ thuật ướp xác của Liên-xô hoàn thiện hơn Trung quốc. Tôi không không thể đề nghị xem chúng tôi giữ xác Mao như thế nào.
- Ông cần phải hiểu tình cảm của chúng ta – Uông trả lời và nhắm mắt lại.
- Tôi hiểu tất cả, nhưng các nhà khoa học Trung quốc chưa tiếp cận với cái này – Tôi trả lời.
- Chỉ cần ông tìm cho được những người có khả năng làm việc này. Lãnh đạo đảm bảo tất cả các điều kiện cần thiết – Uông kiên trì.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh, bị liệt, người cao tuổi nhất trong số đảng viên cộng sản và người sáng lập giải phóng quân Trung quốc gặp tôi. Tôi rất quý ông nguyên soái. Ông quan tâm đến quan điểm của tôi về quyết định vừa được thông qua và tôi phải nói đi nói lại cho ông biết tất cả các khó khăn. Lặng đi một lát ông nói:
- Chúng ta không còn sự lựa chọn nữa, chúng ta cần thực hiện quyết định của Bộ chính trị. Tôi cho rằng bác sĩ Lý nên tiếp tục tham khảo những người tin cậy, và có thể đề nghị viện mỹ thuật trang trí ứng dụng. Có thể người ta ở đó làm được hình Mao bằng sáp. Nếu nó giống y thật, thì khi cần thiết thì trong tương lai chúng ta sẽ dùng nó để thay thế thi hài lãnh tụ.
Tôi giật thót tim. Đến cả Diệp Kiếm Anh, phó Chủ tịch ủy ban khoa học kỹ thuật và công nghiệp quốc phòng cũng đòi làm những điều không thể làm được.
Uông Đông Hưng cũng đồng ý với Diệp Kiếm Anh, và yêu cầu tôi không kể cho ai.
Đến tận giờ, tôi không biết có bao nhiêu ủy viên Bộ chính trị biết về phương án phiên bản Mao bằng sáp. Có thể điều này bí mật đến mức thậm chí Giang Thanh cũng không biết.
Tôi trở vào phòng chưa thi hài. Trong phòng chất đầy thiết bị y học, và chúng tôi chuyển thi hài sang buồng thoáng hơn nối liền với phòng Bộ chính trị vừa họp. Nhiệt độ không khí khoảng 26 độ, là tương đối cao. Tôi đề nghị hạ nhiệt độ xuống 10 độ, tuy nhiên nhân viên phục vụ từ chối làm điều này. Họ tuân lệnh Giang Thanh giữ nghiêm nhiệt độ cao như thế. Họ giải thích rằng trong toà nhà có mặt tất cả các nhà lãnh đạo trong nước. Họ khuyên tôi đề nghị trực tiếp với lãnh đạo. Điện ở Trung Nam Hải lấy từ hai trạm điện và đủ cung cấp để đảm bảo nhiệt độ bình thường trong phòng không phụ thuộc vào thời tiết bên ngoài. Thậm chí trong toà nhà 202 xây riêng cho Mao, lại không có khả năng điều hoà nhiệt độ cho từng phòng riêng biệt. Tôi vào phòng họp đề đạt quyết định Bộ chính trị giảm nhiệt độ trong toà nhà. Sau đó các cuộc họp Bộ chính trị chuyển sang thời gian khác.
Khi tôi trở lại thì Trương Bình Thân và Ngô Thanh đã tiêm xong formaldehyde. Tôi kể cho họ về quyết định mới của lãnh đạo và cả hai thống nhất rằng giữ thi hài lãnh tụ nhiều năm trong thời điểm hiện nay thực tế là không thể.
Tôi đề nghị họ chấp hành quyết định lãnh đạo Chúng ta cần phải tìm cách để làm điều này. Tôi đề nghị ai đó trong chúng ta vào thư viện viện hàn lâm y học và cố tìm xem một tài liệu về vấn đề này
Sau một tiếng, Ngô Thanh từ thư viện gọi cho tôi nói là đã đọc qua phương pháp bảo quản xác lâu dài. Theo phương pháp đó thì tiêm vào thân thể người chết khoảng 12-16 lít formaldehyde tùy theo trọng lượng xác. Đồng thời làm việc đó trước 4 đến 8 giờ sau khi chết. Quy trình dừng lại khi mà dung dịch đã lấp đầy ngón tay và ngón chân người quá cố.
Bà ta cũng tìm thấy mô tả lý thuyết phương pháp này trong một tài liệu nước ngoài, nhưng lại không tin vào kết quả thực nghiệm và đề nghị tham khảo ý kiến với các ủy viên Bộ chính trị. Tôi gặp Uông Đông Hưng, nhưng ông ta giận dữ giận dữ nói:
- Các đồng chí là chuyên gia và tự quyết định lấy. Đừng có vì việc này phải họp Bộ chính trị. Thậm chí nếu chúng tôi họp lại thì việc này cũng nằm ngoài tầm hiểu biết quyết của chúng tôi. Tôi khuyên đồng chí nên đi và làm việc.
Trong phòng xuất hiện thêm hai gương mặt mới – Trương, từ bệnh viện Hàn lâm y học và Mạc ở bộ phận bệnh lý học bệnh viện Bắc Kinh. Trương giúp tiêm formaldehyde vào thi hài, còn Mạc lo việc trang điểm người quá cố. Tôi thông báo rằng công việc bắt đầu. Đến 10 giờ sáng thì xác Mao đã được tiêm dung dịch nhiều hơn là dự kiến. Chúng tôi quyết định làm điều này để lấy hy vọng.
Kết quả làm mọi người choáng váng. Mặt Mao phồng lên như quả bóng, cổ dày lên đẩy lên đến đầu. Da thì bóng lên và từ chân lông phun ra những hạt formaldehyde bé li ty. Thân người phồng lên khác thường. Mấy tay bảo vệ và người giúp việc hết sức sợ hãi không nói nên lời.
- Sao lại ghê thế này – Trương Ngọc Phượng thét lên – Các ông làm thân thể Chủ tịch thành cái gì thế?
Mặc sự cố, Ngô Thanh không bối rối. Nhưng Trương Bình Thân thì thấy hãi thật. Ông ta mặt tái nhợt lộ vẻ lo sợ.
- Đừng lo – tôi an ủi ông – Chúng ta phải nghĩ một cái gì đó xem.
Chúng tôi đã đưa vào xác nhiều formaldehye nhưng lấy chúng ra như thế nào đây.
- Chỗ nào không chữa được thì phủ quần áo lên, nhưng mặt và cổ thì phải sửa – tôi trả lời.
Trương đưa ra ý kiến xoa bóp để dung dịch chạy xuống dưới thân. Tất cả mọi người xúm lại lấy gạc và bông băng quấn quanh để đẩy dung dịch xuống thân. Trương sợ hãi đến nỗi làm rách mẩu da cổ Mao. Ông sợ thực sự, nhưng Mạc động viên, nói là dùng son phấn sẽ che được. Sau một phút thì bàn tay lành nghề của Mạc đã che phủ thiếu sót của Trương, và cổ Mao không khác trước đây.
Chúng tôi làm đến ba giờ sáng, cuối cùng thì bộ mặt Mao coi cũng giống như trước đây. Cổ đã bé bớt. Đám bảo vệ và người giúp việc nhận xét rằng bây giờ thì Mao trông được hơn. Vất vả lắm họ mới thay được quần áo và phải rạch chúng từ phía lưng.
Đúng lúc này Hứa Thế Hữu tư lệnh quân sự Quảng Châu bước vào phòng là. Ông ta vừa tới Bắc Kinh và ngay lập tức quyết định viếng lãnh tụ lần cuối.
Hứa Thế Hữu là một trong những tướng tài của Trung quốc. Ông vào đảng từ hồi trẻ và tham gia cuộc Trường Chinh. Hứa Thế Hữu sinh ra trong một gia đình rất nghèo và từ thuở thơ ấu đã phải bỏ nhà và trở thành một phật tử tại chùa Thiếu lâm thuộc tỉnh Hồ Nam. Ngôi chùa này nổi tiếng thế giới nhờ món võ thuật phương đông mang tên ngôi trường của nó. Bố mẹ Hứa Thế Hữu là nông dân và Hứa Thế Hữu chỉ được dạy đọc trong quân đội. Ông là người thô lỗ và chân chất, nhưng theo Uông Đông Hưng kể, thì Hứa có sức khoẻ phi thường có thể một mình chọi 20 kẻ thù, Hứa không thích Giang Thanh và trung thành với Mao như một con chó.
Nhìn Mao, Hứa Thế Hữu theo truyền thống cổ Trung quốc cúi vái ba lần sau đó quay sang tôi hỏi:
- Bao nhiêu ga-ma ở Mao trước khi chết?
Tôi không thể hiểu ông ta nói gì, nhưng Hứa Thế Hữu tiếp tục:
- Con người ta mỗi người có 24 gama. ở Chủ tịch có bao nhiêu? Tôi không biết trả lời thế nào.
- Đồng chí bác sĩ giỏi mà không biết ga-ma là cái gì? Hứa Thế Hữu xỉ nhục tôi
Cho đến nay tôi vẫn không hiểu có phải đấy là trò đùa không. Các bạn của tôi, biết nhiều về thuyết phật giáo giải thích cho tôi là theo thuyết của Phật trong mỗi cơ thể người sống có 24 gama, nhưng nó là cái gì thì không ai trong số họ có thể nói ra được.
Hứa Thế Hữu hai lần đi quanh thi hài Mao nói:
- Giống như ma quỷ. Sao trên mình mẩy lại có vết chấm đen?
Sau đó lại vái ba lần và đi ra.
Mạc kết thúc trang điểm, chúng tôi hài lòng với công việc, phủ lên thi hài đảng kỳ có búa liềm nền đỏ tươi. Đêm 9 rạng ngày 10 tháng 9, gần một đêm sau khi Mao chết, chúng tôi bỏ xác Mao vào quan tài thuỷ tinh. Một vài ủy viên Bộ chính trị chụp ảnh quanh quan tài. Sau đó thi hài Mao được chở đi bằng xe cứu thương. Tôi ngồi cạnh quan tài, xe chúng tôi ra khỏi cổng Trung Nam Hải về phía nam Bắc Kinh trong đêm vắng người. Để linh cữu Mao vào gian hội nghị hiệp thương toàn Trung quốc, ở đó trong thời gian một tuần sẽ làm lễ truy điệu.