Ngày
28-11-2012, Hội đồng Thẩm định Dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A sẽ bắt
đầu làm việc. Tất cả những ai yêu quý Rừng quốc gia Cát Tiên, báu vật vô
giá của đất nước đều chờ đợi những kết luận công minh của Hội đồng Thẩm
định này, mặc dầu biết rằng, trong tình hình xã hội cực kỳ phức tạp
hiện nay, dưới tác động của nhiều thứ lợi ích khác nhau, một sự trông
đợi như vậy rất có thể trở thành vô vọng, bởi không phải không bao giờ
xảy ra những tình huống oái oăm mà chân lý đôi khi vẫn bị lật ngược, tuy
ai cũng tự coi mình là nhà khoa học, chỉ lấy thiên chức khoa học làm
tiêu chí trong đánh giá.
Được phép TS Tô Văn Trường, BVN
xin đăng bản thẩm định của ông với tư cách một thành viên Hội đồng. Vẫn
biết đây là một bản thẩm định chuyên sâu, tuy vậy, theo chúng tôi,
trình độ tri thức chung của bạn đọc vẫn có thể đọc ra được những ý tưởng
tổng qưát của nó. Xin được bày tỏ lời cám ơn nhã ý của TS Tô Văn Trường
và xin đăng kèm theo đây ý kiến của một số nhà khoa học chuyên ngành
Việt Nam ở nước ngoài đóng góp vào bản Dự án thông qua lá thư của một
cộng tác viên là TS Mai Nghiêm.
Bauxite Việt Nam
|
Cám ơn các bạn trong Nhóm yêu quý bảo vệ vườn quốc gia Cát Tiên đã gửi ý kiến của bác TVT về khía cạnh pháp lý.
Được đăng bởibauxitevn
Vì
gấp rút và bản văn gửi đến rất cận ngày nên chúng tôi xin phép Nhóm
tổng hợp các ý trao đổi trong một lá thư nhằm gửi về vài nhận xét nhanh,
dựa trên thông tin các bạn gửi, để quý vị tùy nghi. Hy vọng các bạn kịp
đọc để tường tri.
ĐVT:
"Thông
thường mà nói thì khi làm xong đập, nếu đúng vào mùa mưa thì lượng nước
chảy vào hồ nhiều hơn công suất nhà máy nên chủ nhà máy có thể vừa chạy
máy vừa tích nước vào hồ, còn nếu làm xong đập đúng lúc mùa khô thì trừ
phi họ bắt buộc phải chạy máy để xả nước về hạ lưu, họ thường tích nước
đến một chừng mực nào đó mới bắt đầu chạy máy để được higher head
(nghĩa là phát được nhiều điện hơn với cùng một thể tích nước).
Khi
nhà máy đã hoạt động bình thường thì tùy theo thể tích của hồ chứa so
với (relative to) lượng nước vào hồ, hồ chứa có thể có khả năng điều
tiết với chu kỳ ngày, tuần, mùa hay nhiều năm. Nếu là chu kỳ ngày như
anh [?] nói thì dĩ nhiên sẽ chạy máy lúc load (phụ tải) cao vào ban ngày
và tích nước vào ban đêm khi nhu cầu dùng điện thấp. Nếu chu kỳ là tuần
thì cũng tích nước vào ban đêm và weekend. Chu kỳ mùa (còn gọi là
annual cycle) thì tích nước vào mùa lũ để dùng cho mùa khô (nghĩa là mùa
khô hạ lưu sẽ có nhiều nước hơn trước khi có hồ chứa).
Một
điều tôi ghi nhận là hầu hết thủy điện ở Bắc Mỹ hay châu Âu phải chạy
máy liên tục để duy trì một lưu lượng tối thiểu nào đó cho hạ lưu (vì lý
do water supply và environment), thì ở VN hầu như không có cái yêu cầu
quan trọng này, nên khi nhà máy thủy điện ngưng chạy vì lý do nào đó thì
hạ lưu phải chết khát".
PPL:
"Tôi
cũng không tin có thể xây dưng lại môi trường [ngay cả ở HK làm refuge
cho chim tại Bắc San Diego nhưng chẳng con nào về sống] nên sau khi phá
rừng ở VN là mất vĩnh viễn, nhất là ngân quỹ bỏ ra cho việc trồng rừng
nuôi thú vật trong hai dự án này thật quá ít ỏi, không đáng kể.
Các
bạn trong nước có thấy không, còn tôi không thấy trong ĐMT có nói đến
đường tháo đáy, nên trầm tích sẽ nâng đáy hồ và làm giảm tuổi thọ của
đập cần có để hoạt động, chắc chắn hạ du sẽ bị mất đi môt số lớn phù sa.
Tôi cũng không thấy ĐMT nói đến thang [cho] cá [nhảy lên thượng nguồn]
hay không thể [làm được?].
Tôi đã tính, tuy rất
thô sơ, dung tích hồ có thể có từ mực nước dâng bình thường đến mức nước
gia cường của hai hồ và cho rằng chỉ trong vài phút đến độ chục phút sẽ
đầy. Các hồ này hoàn toàn không có mục đích cắt lũ. ĐMT trình bày "biện
pháp giảm thiểu tác động do ngập lụt" trang 318-320 và trích dẫn "quy
trình vận hành liên hồ do TT CP phê duyệt" nhằm giảm lũ cho hạ du là
những điều "misleading" trong ĐMT dùng TT để che chắn.
CT
DLGL đang trên đường phá sản, tiền vay được nhờ hai dự án này chắc gì
sẽ còn và đủ để hoàn tất dự án và CT này có khả năng tài chánh thực hiện
hết các cam kết khác hay không?
Tôi xem lại chi tiết trong ĐMT và xin minh xác như sau:
ĐN6 có thể tích hồ chứa toàn bộ là 64 Mm3 với dòng chảy trung bình năm là 156 m3/s nên chỉ tích nước trong một tuần là xong.
ĐN6A có thể tích toàn bộ là 31 Mm3 với dòng chảy trung bình năm là 164 m3/s sẽ chỉ tích nước trong hai ngày là xong.
Do
đó, quan tâm thiệt hại lúc khởi đầu có thể không cao hơn sau này như
tôi đã e ngại chủ đập có thể kéo dài thời gian tích nước để giảm tác
động.
Theo giải thích của anh Tùng, tôi xem lại
thể tích hữu ích của ĐN6 là 15 Mm3 ĐN6A là 9 Mm3 không nhiều lắm so với
dòng chảy, nên chu kỳ hoạt động sẽ là ngày hay tuần. Số giờ chạy máy
full load tương đương 4875 giờ mỗi năm nên gần như sẽ chạy liên tục 8760
giờ vì sẽ có part load.
Tuy vậy khả năng gây
tác động xuống hạ lưu vẫn có nếu điều hành không theo dõi bảo đảm dòng
chảy tối thiểu như anh Tùng đã nêu ra".
ĐĐC:
"Thưa các Bác,
Bây giờ là buổi chiều ngày 27-XI-2012. Tôi xin gửi những ý kiến tuần tự sau khi đọc xong tất cả các tài liệu đã nhận được.
Về hình thức.
1.
Các Bác nên làm như một hearing ở các nước Angl-Saxon (xem TV Mỹ để bắt
chước) chỉ định một người biện luận [phản biện]. Người đó sẽ xin gọi
một chuyên gia đến khai triển mỗi điểm.
2. Những
báo cáo của các Bác thiếu một executive summary tóm tắt trên một trang
tối đa những điểm chính mà mình muốn người đọc ấn tượng, nhớ và quyết
định theo ý của mình. Tài liệu này rất quan trọng vì không ai, trong
thời gian ngắn có thể đọc được hết tất cả báo cáo và khi đọc xong đoạn
cuối thì sẽ quên đoạn đầu rồi.
Nội dung bài đăng ở địa chỉ
file:///C:/Users/TONTON/AppData/Local/Temp/TongHop_Final-2.html
I-1.b Ảnh hưởng tới đa dạng sinh học của VQG Cát Tiên
Có
một điểm mà nhiều kỹ sư nêu lên, nhưng tôi không đồng ý vì tính bất khả
thi của nó và tính bất khả tín của những người đề xướng: "Tôi tàn phá
môi trường ở đây nhưng tôi khôi phục hay xây dựng một môi trường tốt hơn
ở nơi khác". Xin các Bác kiểm-tra xem những người bảo vệ dự án có giải
pháp thay thế (alternative solution) nào không. Nếu có thì để phá chứ
không nên đề nghị một giải pháp thay thế nào cả vì khó mà giải pháp
[thay thế] đó sẽ khả thi.
I-1.b Ảnh hưởng tới đa dạng sinh học của VQG Cát Tiên – Nước từ thượng nguồn sông Đồng Nai...
Nếu
không có thủy điện thì lượng nước chảy theo một chu kỳ nào đó. Sinh
thái đã thích nghi với chu kỳ đó. Với thủy điện (hay bất cứ mọi công
trình thủy lợi nào) thì chu kỳ nước chảy sẽ khác. Sinh thái có thể không
thích nghi với chu kỳ mới và sẽ bị hủy diệt.
I-2 Ảnh hưởng ngoại vùng
Xin
các Bác kiểm tra xem hồ có đường tháo đáy và đập có thang cho cá nhảy
lên thượng nguồn không. Mọi công trình thủy lợi đều phải có những thiết
bị đó.
Nếu không có đường tháo đáy thì không thể
thường xuyên tháo nước để cho trầm tích lắng xuống đáy hồ có thể tuôn
xuống hạ nguồn bồi đắp châu thổ làm cho đồng ruộng màu mỡ tự nhiên và
chảy ra biển nuôi cá, nguồn lợi tức của ngư dân sống ven biển.
Nếu không có thang cá thì cá ở hạ nguồn sẽ không có thể lội lên thượng nguồn để sinh đẻ.
II-Về hiệu quả phát điện của hai dự án
Xin
các Bác kiểm tra xem thể tích các hồ của bậc thang thủy điện có đủ để
cắt lũ hay không. Theo những gì tôi đọc trên báo mạng trong nước thì thể
tích của các hồ khác không đủ trên báo cáo khả thi và khi thực hiện thì
lại rút nhỏ hơn vì công trình bị rút ruột. Hậu quả là vào mùa lũ nước
trong hồ sẽ tràn qua đập hoặc nhà đầu tư xả lũ để bảo vệ đập. Do đó,
người dân không những phải chịu đựng nước mưa tự nhiên của mùa lũ mà còn
phải hứng thêm nước xả lũ của nhà máy. Ngược lại, vào mùa hạn người dân
cần nước thì nhà máy giữ lại trong hồ để có nước mà quay ráo [?] sản
xuất điện. Hậu quả là công trình thủy lợi không làm tròn chức năng điều
hòa nguồn nước cho nông nghiệp mà lại còn làm cho thiên tai trầm trọng
hơn.
III-Tiềm năng của VQG trong việc ...
Xin
các Bác nhấn mạnh ở điêm: Nếu tất cả quỹ 4,4 triệu đô này dùng cho Đồng
Nai 6 và 6A thì cũng chỉ là một số tiền không đáng kể trong vốn đầu tư
của dự án và lại còn không đáng kể hơn so với giá trị môi trường của VQG
Cát Tiên.
Xin chúc các Bác kịp bổ tục"
Kính chúc mọi việc trôi chảy, may mắn và thành công.
Trân trọng,
MN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
BẢN NHẬN XÉT BÁO CÁO
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG MÔI TRƯỜNG DỰ ÁN “ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CÔNG TRÌNH THỦY ĐIỆN ĐỒNG NAI 6 và 6A”
1. Họ và tên người viết nhận xét : Tô Văn Trường
2. Học hàm, học vị, chức vụ công tác: Tiến sĩ tài nguyên nước và môi trường.
3. Nơi công tác: Thành viên Ban chủ nhiệm chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp nhà nước KC08/11-15 Bộ Khoa học và Công nghệ.
Email: tovantruong1948@yahoo.com
Điện thoại: 01259425555
4. Chức danh trong hội đồng: Ủy viên
5. Tên dự án: Đầu tư xây dựng công trình thủy điện Đồng Nai 6 và 6A
6. Nhận xét về báo cáo:
Báo
cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) do Viện Môi trường và Tài nguyên
- Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh thực hiện. Chủ nhiệm: PGS TS Nguyễn
Văn Phước
Tôi chưa nhận được bản báo cáo ĐTM
được cập nhật bổ sung, do đó nhận xét dưới đây là căn cứ vào bản báo cáo
hiện có. Báo cáo đánh giá tác động môi trường dự án “Đầu tư xây dựng
công trình thuỷ điện Đồng Nai 6A bao gồm 361 trang, 6 chương với những
nội dung sau:
CHƯƠNG 1 : Mô tả tóm tắt dự án
CHƯƠNG 2 : Điều kiện môi trường tự nhiên và kinh tế - xã hội khu vực thực hiện dự án
CHƯƠNG 3 : Đánh giá tác động môi trường
CHƯƠNG 4 : Biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động xấu và phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường
CHƯƠNG 5 : Chương trình Quản lý và giám sát môi trường
CHƯƠNG 6 : Tham vấn ý kiến cộng đồng
Kết luận, Kiến nghị và cam kết
Các tài liệu tham khảo
I. Nhận xét chung
Chúng
ta đã biết hiện nay trên thế giới có 4 loại hình đánh giá tác động là
Đánh giá tác động môi trường; Đánh giá tác động xã hội; Đánh giá tác
động sức khỏe và Đánh giá tác động kinh tế. Dưới góc độ khoa học, mỗi
loại hình đánh giá tác động phải đáp ứng 3 tiêu chí của khoa học là đối
tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và nội dung nghiên cứu. Dưới
góc độ môi trường 4 loại hình đánh giá tác động này được coi là công cụ
mang tính phòng ngừa rất hữu hiệu trong công tác bảo vệ môi trường.
Đánh giá tác đông môi trường - ĐTM
(Environmental Impact Asessment-EIA) ra đời sớm nhất và phát triển mạnh
mẽ có chức năng dự báo các tác động của dự án đến các yếu tố thuộc về
môi trường tự nhiên. Các phương pháp về môi trường học đóng vai trò chủ
đạo trong đánh giá tác động môi trường. ĐTM dùng để đánh giá tác động
của các dự án đầu tư. Vì vậy, khi sử dụng ĐTM phải được thực hiện đồng
thời với giai đoạn chuẩn bị đầu tư và tuân thủ các quy định về ĐTM tại
Nghị định 21 của Chính phủ sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
80/2006 về hướng dẫn thi hành Luật bảo vệ môi trường và Thông tư
05/2008/TT-BTNMT của Bộ Tài nguyên & Môi trường.
Đánh
giá tác động môi trường ở Việt Nam chính thức bắt đầu có hệ thống từ
khi có Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) từ năm 1993, được cập nhật năm
2005. Các báo cáo ĐTM từ dạng đơn giản như Bản đăng ký đạt tiêu chuẩn
môi trường, bản Cam kết bảo vệ môi trường đến các bản đánh giá ĐTM khá
bài bản theo quy định của Nhà nước hiện nay, bước đầu đã đóng góp đáng
kể vào việc phát triển kinh tế xã hội bền vững của đất nước.
Về
bản chất, EIA là một công cụ khoa học mang tính dự báo trong quản lý,
bảo vệ môi trường. Hay nói một cách khác, EIA là một công cụ giúp chúng
ta tiên lượng, dự đoán được những tác động môi trường cả về mặt tích cực
và tiêu cực có thể xảy ra, từ đó đề ra được những biện pháp nhằm ứng
phó như thích nghi, giảm thiểu, giảm nhẹ, loại trừ với các tác động tiêu
cực.
ĐTM chỉ áp dụng đối với các dự án đầu tư
và phải được lập, thẩm định và phê duyệt trước khi quyết định, phê duyệt
dự án đầu tư. Riêng đối với các cơ sở đang hoạt động thì Luật BVMT 2005
chưa có quy định áp dụng công cụ nào. Nhiều nước trên thế giới áp dụng
công cụ kiểm toán môi trường. Độ tin cậy, chính xác của ĐTM phụ thuộc
vào phương pháp dự báo, thông tin số liệu đầu vào và kinh nghiệm tay
nghề của người thực hiện. Thông tin quan trọng nhất chính là thực trạng
của các thành phần môi trường sẽ bị tác động bởi dự án như khả năng tự
làm sạch môi trường, khả năng tự chống đỡ của môi trường phải được xác
định chính xác ngay tại thời điểm dự án, đây chính là hiện trạng môi
trường và phải được dự báo cho đến thời điểm dự án đi vào triển khai
hoạt động. Khó khăn cho những người thực hiện ĐTM là độ tin cậy và rất
hạn chế về lượng thông tin có tính hệ thống, đồng bộ.
ĐTM
hiện nay vẫn đang theo phương thức đơn lẻ đối với từng dự án đầu tư cho
nên kết quả thường hạn chế. Cách tốt nhất là phải “lồng ghép” trong dự
báo, đánh giá tác động của hệ thống các dự án trong cùng 1 vùng.
Cả
2 báo cáo ĐTM của dự án thủy điện Đồng Nai 6 và 6A tương tự như nhau về
mặt hình thức, cấu trúc, nằm trong cùng 1 địa bàn, cho nên nhận xét sau
đây chung cho cả 2 dư án thủy điện 6 và 6A.
Báo
cáo ĐTM thực hiện theo dúng quy định của Thông tư 26/2011/TT-BTNMT về
lập báo cáo ĐTM. Đặc biệt báo cáo này đã có những thông tin chi tiết về
hiện trạng rừng và đánh giá mức độ đa dạng sinh học (ĐDSH) đối với khu
vực dư án. Tuy nhiên, cần tham khảo các nhà chuyên môn đã từng nghiên
cứu về ĐDSH khu vực này để xác nhận tính xác thực của các thông tin về
hiện trạng rừng và ĐDSH.
Các nhận định và đánh
giá về tác động môi trường của dư án nêu trong báo cáo là xác đáng, đối
với các tác động như: Ô nhiễm không khí, khói bụi, tiếng ồn, chất lượng
nước, chất thải rắn, trong quá trình chuẩn bị dự án, xây dựng và vận
hành là những tác động hoàn toàn có thể giảm thiểu nếu như chủ đầu tư
cam kết đúng như những gì đã nêu trong chương 4 và 5 của báo cáo.
- Đối với tác động môi trường của dư án này cần xem xét và đánh giá cẩn trong đối với các vấn đề sau:
ü Mất vĩnh viễn diện tích rừng và suy giảm ĐDSH
ü Rủi ro và sư cố môi trường
ü
1) Mất vĩnh viễn diện tích rừng và suy giảm đa dạng sinh học
Theo báo cáo đối với DN 6 và 6 A diện tích đất rừng các loại bị mất vĩnh viễn như sau:
-
Đối với ĐN 6A, lựa chọn phương án (PA) mực nước dâng 175m, và đánh giá
là giảm diện tích rừng bị mất vĩnh viển so với PA dâng 177 m là khoảng
15 ha, trong đó chỉ có 2 ha thuộc khu bảo vệ nghiêm ngặt của Nam Cát
Tiên. Như vậy với PA này, diện tích khu bảo vệ nghiêm ngặt bị ngập là 25
ha, trên tổng số 107 ha đất rừng bị ngập.
- Đối
với DN 6, lựa chọn PA mực nước dâng 224m thì diện tích chiếm đất vĩnh
viễn là 171,36 ha (155,35 diện tích lòng hồ và 16,01 ha diện tích công
trình chính) trong đó có 77.36 ha thuộc rừng Quốc gia Nam Cát Tiên.
-
Tuy nhiên, trong báo cáo chưa tính đến diện tích đất dùng cho tuyến
truyền tải điện, bao gồm cả hành lang an toàn, Các PA truyền tải chưa
được nêu ra, mặc dù hành lang an toàn theo quy định là không lớn, nhưng
lại kéo dài và như vậy diện tích đất và rừng bị mất cũng sẽ là không
nhỏ.
- Quan điểm của các nhà bảo tồn đa dạng sinh học
(ĐDSH), căn cứ theo luật ĐDSH thì rõ ràng cả 2 dự án đều vi phạm vào
khu bảo tồn thuộc vườn Quốc gia Cát Tiên. Toàn bộ quá trình từ giai đoạn
chuẩn bị, xây dựng và vận hành đều gây tác động vĩnh viễn đến việc mất
tổng số gần 300 ha đất rừng trong đó 25 ha thuộc khu bảo vệ nghiêm ngặt
và 77 ha rừng phòng hộ. Cũng theo đánh giá của báo cáo thì khu vực này
là một trong những khu vực hiếm hoi ở Đông Nam Bộ có tính ĐDSH cao, tồn
tại nhiều loại động thực vật có tính bản địa, có giá trị kinh tế, và cần
được bảo tồn vì có nguy cơ tuyệt chủng, thuộc những loài nằm trong sách
đỏ VN.
- Đứng trên góc độ người dân câu
hỏi đặt ra là nếu không có việc xây dựng DN 6 và 6A thì, rừng có được
bảo vệ nghiêm ngặt như tên của nó không? Vấn nạn khai thác gỗ lậu, săn
bắn thú rừng trái phép diễn ra khắp nơi như hiện nay liệu những khu rừng
như Nam Cát Tiên còn tồn tại được bao lâu? Như vậy thủ phạm làm mất
rừng, suy giảm ĐDSH ở đây là ai? Chủ đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện?
hay những công ty xuất nhập khẩu gỗ lâm sản hay hàng chục ngàn quán nhậu
có thực đơn là thịt thú rừng (Vườn QG Cát Tiên đã xác nhận cá thể Tê
giác 1 sừng cuối cùng đã bị sát hại năm 2011).
- Đứng trên quan điểm quản lý môi trường
là sự cân nhắc giữa bài toán được và mất, cái được về mặt kinh tế của 2
dự án này theo tính toán kinh tế là đã rõ, những cái thiệt hại về môi
trường cũng đã được đánh giá khá đầy đủ, vấn đề quan điểm của các nhà
quán lý như thế nào?
- Ý kiến tham khảo là:
Dự án có thể được xem xét thông qua trong trường hợp báo cáo ĐTM đáp
ứng được các yêu cầu và chủ đầu tư cam kết và đảm bảo thực hiện đầy đủ
các biện pháp trồng rừng, trồng bù rừng vào những diện tích rừng đã mất
là những vị trí nào, diện tích trồng lại rừng trồng bù rừng là bao
nhiêu? Thời gian cụ thể? Ngoài các biện pháp đền bù thiệt hại và hỗ trợ
kinh tế cho người dân bị thiệt hại và rừng Nam Cát Tiên. Chủ dự án cũng
cần phải thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường theo nghị định
99/2010/NĐ-CP, đối với dự án thủy điện là 20 đồng/kwh.
-
Ngoài việc Báo cáo ĐTM cần cụ thể hóa kế hoạch trồng và phục hồi rừng,
trong chương tham vấn ý kiến cộng đồng, ngoài việc ý kiến của chính
quyền, UBND, MTTQ và người dân, Chủ dự án cần tham khảo và có sự đồng
thuận của chủ rừng, vườn Quốc gia Cát Tiên, cơ quan quản lý môi trường
của các địa phương như Đồng Nai, Bình Phước, Lâm Đồng. Văn bản điều
chính Quy hoạch phạm vi vườn Quốc gia Cát Tiên có vi phạm luật không? Dư
luận xã hội ra sao?
2) Rủi ro và sư cố môi trường
-
Trong báo cáo đề cập đến rất nhiều loại rủi ro và sự cố, tuy nhiên
những rủi ro, hoặc lỗi kỹ thuật trong các khâu thiết kế, thi công chưa
được đề cập tới. Lấy ví dụ trường hợp nổ do công nhân khoan tại hầm thủy
diện Nam Pong, Nghệ An, hay rò rỉ, thấm thân đập thủy điện sông Tranh
2.
- Báo cáo cũng cho rằng, đối với rủi ro do vỡ
đồng thời 2 đập DN 6 và 6A, thì mức độ, diện tích ngập ở phía hạ lưu
được tính toán tương đương với trường hợp lũ năm 2000 và 2006. Do vậy
báo cáo phải có sự cam kết của chủ đầu tư về việc xây dựng kế hoạch
trong đó có các biện pháp ứng phó bao gồm cả phương tiện dự phòng trong
trường hợp sự cố xảy ra.
II. Nhận xét cụ thể
Tóm tắt dự án:
Công
trình thủy điện Đồng Nai 6A (tuyến 3) có bờ phải thuộc xã Đồng Nai,
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước; bờ trái thuộc xã Phước Cát 2 huyện Cát
Tiên, tỉnh Lâm Đồng; khu vực lòng hồ nằm trên địa bàn 4 xã: xã Đồng Nai,
huyện Bù Đăng tỉnh Bình Phước; xã Phước Cát 2 và xã Đồng Nai Thượng,
huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; xã Hưng Bình, huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk
Nông. Trong đó, chiếm 50,55 ha Vườn Quốc Gia Cát Tiên tại các tiểu khu
504B, 505, 506 xã Đồng Nai Thượng và tiểu khu 497, 540A huyện Cát Tiên,
tỉnh Lâm Đồng; 32,644 ha thuộc tiểu khu 1606, 1607, 1608 thuộc rừng
phòng hộ Nam Cát Tiên tỉnh Đắk Nông; 91,42 ha thuộc tiểu khu 201 của
Nông lâm trường Cao su Đồng Nai xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình
Phước. Nhằm cung cấp thêm điện năng vào điện lưới quốc gia, dự án sẽ
tiến hành xây dựng nhà máy có công suất lắp máy 106 MW với dung tích hồ
chứa 31,17x106 m3.
Công trình do Công ty Cổ phần Tập đoàn Đức Long Gia Lai làm chủ đầu tư .
Thông số thiết kế chính cho công trình với MNDBT/MNC = 175m/170m , Nlm = 106MW, Whi = 9,67x 106 m3, Nbđ=
24,19 MW, lưu lượng qua tràn ứng với lũ kiểm tra là 11. 650 m³/s, lũ
thiết kế 8.589 m³/s, lưu lượng qua nhà máy 377,41 m³/s… Trong thiết kế
cơ sở tính toán dòng chảy trung bình nhiều năm đến tuyến đập Đồng Nai 6A
là Qtb = 164 m3/s, với sơ đồ khai thác nhà máy bố trí theo kiểu sau đập, các hạng mục công trình chính của dự án bao gồm:
+ Cụm đầu mối áp lực gồm: đập dâng chiều dài 266,5m; đập tràn rộng 91m, cống dẫn dòng; cửa lấy nước.
+ Cụm công trình tuyến năng lượng gồm: Đường ống áp lực; nhà máy; kênh xả.
Trong
đó, quy trình vận hành hồ chứa được thiết kế dựa theo các quy định của
Luật đê điều, nghị định 72/2007/NĐ-CP về quản lý an toàn đập, quyết định
số 285/2006/QĐ-TTg về nội dung thẩm quyền ban hành và tổ chức thực hiện
quy trình vận hành hồ chứa thủy điện, các tiêu chuẩn quy phạm khác liên
quan tới công trình thuỷ công và hồ chứa nước, đảm bảo an toàn tuyệt
đối cho các công trình ở tuyến đầu mối thuỷ điện Đồng Nai 6A. Nước cấp
cho nhu cầu ở hạ du sẽ được ưu tiên sử dụng từ nguồn nước xả qua tuabin
để đảm bảo hiệu quả phát điện và xả qua cửa xả của đập tràn. Đảm bảo an
toàn tuyệt đối cho các công trình ở tuyến đầu mối, khai thác hiệu quả
nguồn nước cho phát điện.
Dự án có tổng mức đầu tư là 3.773.854.000.000 VNĐ.
Hình thức báo cáo:
Trình bày sạch đẹp, theo đúng bố cục được quy định. Kết cấu chặt chẽ,
phân bố hợp lý, các chương mục thể hiện đầy đủ nội dung nghiên cứu và
bám sát theo các thông tư hướng dẫn lập báo cáo ĐTM như dưới đây
-
Thông tư 26/2011/TT-BTNMT ngày 18 tháng 7 năm 2011 Quy định chi tiết
một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-CP ngày 18 tháng 4 năm 2011 của
Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động
môi trường, cam kết bảo vệ môi trường.
- Thông
tư 05/2005/TT-BTNMT ngày 22/07/2005 của Bộ Tài nguyên và Môi trường về
việc hướng dẫn thi hành nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm
2005 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước.
Đội ngũ cán bộ trong và ngoài đơn vị chủ trì có trình độ và kinh nghiệm hoàn tất các nội dung được giao.
(1) Phần Mở đầu:
Tổng
quan về đề tài gồm 14 trang nêu tính cấp thiết của nghiên cứu, các nội
dung nghiên cứu khác có liên quan, mục tiêu, phạm vi, cơ sở pháp lý,
tiêu chuẩn quy phạm.
(2) Chương 1:
Bao gồm 60 trang bao gồm mô tả tóm tắt dự án,
(3) Chương 2:
Bao gồm 89 trang tổng quát về điều kiện môi trường tự nhiên hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Tại mục 2.1.4
Hiện trạng các thành phần môi trường: Để đánh giá hiện trạng môi trường
trước khi tiến hành xây dựng Nhà máy thủy điện Đồng Nai 6A, Viện Môi
trường và Tài nguyên đã tiến hành khảo sát thực địa và lấy mẫu phân tích
vào tháng 2/2012 vào thời điểm lấy mẫu trời nắng nhẹ, ít gió. Số lượng
mẫu thu được là 6 mẫu. Vị trí lấy mẫu được mô tả ở bảng: Bảng 2.1 Vị trí
thu mẫu không khí (Trang 111); Bảng 2.19 Vị trí, tọa độ lấy nước mặt (Trang 113), Bảng 2 3 Vị trí lấy mẫu nước ngầm (Trang 115), Các bảng này có đủ vị trí, toạ độ tuy nhiên không thấy các bản đồ vị trí trong báo cáo?
- Phần vị trí lấy mẫu đất được mô tả ở Bảng 2.21 Vị trí lấy mẫu đất tại khu vực dự án (Trang 116);. Sơ đồ lấy mẫu được miêu tả trong phần phụ lục 3, Hình 3-3. (Không thấy phụ lục)?, Bảng 2.22 Kết quả phân tích chất lượng đất tại khu vực dự án (Trang 117), không ghi chú đơn vị nào phân tích kết quả chất lượng đất?
Tại mục 2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
(từ trang 166 đến trang 174) Viết quá sơ sài và không trích dẫn nguồn
số liệu tứ đâu?; năm nào? Cần bổ sung thêm phần này cho đầy đủ hơn báo
cáo
- Cần bổ sung thêm đính hướng phát triển kinh tế đến 2020.
(4) Chương 3:
Đánh giá tác động gồm 112 trang.
Tại Mục: 3.1.1 Giai đoạn chuẩn bị của dự án: Mỗi công việc có nguồn tác động khác nhau nên phân ra như ở dưới đây:
1. San lấp mặt bằng:
Tác nhân ô nhiễm: Xe san ủi mặt bằng, xe tải vận chuyển đất, cát, đá....
Nguồn gây tác động: Bụi, khí thải, tiếng ồn và độ rung.
2. Xây dựng nhà điều hành, hệ thống giao thông, thu dọn lòng hồ
Tác nhân ô nhiễm: Xe tải vận chuyển vật liệu xây dựng cát, đá....
Nguồn gây tác động:
- Bụi, khí thải, tiếng ồn và độ rung.
- Nước thải sinh hoạt của công nhân.
- Rác thải thu dọn lòng hồ và rác thải sinh hoạt.
3. Bóc vỏ lớp đất mặt các mỏ đất, đá; đào lấy đất đắp đập, nổ mìn khai thác đá xây, đắp đập
Tác nhân ô nhiễm: Xe tải vận chuyển cát, đá, Các hoạt động nổ mìn
Nguồn gây tác động: Bụi, khí thải, tiếng ồn và độ rung.
4. Xây dựng đập chính và đập tràn, Xây dựng nhà máy điện, Xây dựng kênh dẫn dòng, đường ống áp lực
Tác nhân ô nhiễm: Xe tải vận chuyển vật liệu xây dựng., Chất thải hoạt động của công nhân xây dựng
Nguồn gây tác động:
- Bụi, khí thải, tiếng ồn và độ rung.
- Nước thải sinh hoạt.
- Chất thải sinh hoạt.
- Tại mục (c) (trang 176) Khả năng tự làm sạch của lòng Hồ : Tổng
diện tích đất bị ngập khu vực lòng hồ là 107,5 ha. Trong đó diện tích
rừng thường xanh 2,42 ha; rừng hỗn giao (cây gỗ + lồ ô) 104,78 ha, rừng
nghèo 0,3 ha. Lượng sinh khối cho các kiểu thảm thực vật khu vực dự án tổng cộng là 10.738 tấn
-
Phần này cần bổ sung tính theo phương pháp gì?; Dựa vào quy phạm nào?
Bởi thường khi tính sinh khối sẽ tính theo phương pháp các loại sinh
khối cây đứng của Kato, Oga Wa đồng thời tham khảo quy phạm thiết kế
kinh doanh rừng (QPN6-84) kèm theo QĐ 682/QĐKT ngày 1/8/84 của Bộ Lâm
Nghiệp (cũ) nay là Tổng cục Lâm Nghiệp qua các tài liệu cách tính của
các dự án thủy điện trong vùng đã làm. Thường để đánh giá khả năng ô
nhiễm hữu cơ, nên đưa ra 3 phương pháp (PP) dọn lòng hồ sẽ được đặt ra
và lựa chọn:
- PP1: Để nguyên hiện trạng thảm phủ thực vật lòng hồ
- PP2: Chặt bỏ 75% khối lượng thảm phủ
- PP3: Chặt bỏ 50% Khối lượng thảm phủ
Khối
lượng, hàm lượng các chất BOD, P, N theo các phương án. Thực tế qua
khảo sát cũng như các dự án thủy điện trên lưu vực sông Đồng Nai, thì dự
án Thủy điện Đồng Nai 6A chọn phương pháp (PP2) chặt bỏ 75 % khối lượng
thảm phủ trên bề mặt khu vực lòng hồ là hợp lý.
(5) Chương 4:
Biện pháp phòng ngừa, giảm thiểu tác động xấu và phòng ngừa, Ứng phó sự cố môi trường, Bao gồm 38 trang.
Mục 4.1.1.2. Nguồn gây tác động không liên quan đến chất thải, tại mục (c) Biện pháp giảm thiểu do khai hoang rừng (trang 299)
-
Chủ đầu tư sẽ hỗ trợ VQG Cát Tiên xây dựng thêm 1 trạm kiểm lâm và hỗ
trợ kinh phí duy trì hoạt động của trạm kiểm lâm để tăng cường công tác
tuần tra, kiểm tra bảo vệ rừng nhằm ngăn chặn kịp thời các hoạt động săn
bắt, khai thác trái phép động vật, lâm sản khu vực rừng phòng hộ cũng
như VQG Cát Tiên.
- Theo hệ thống giao thông để
thi công công trình có rất nhiều đường nhỏ chia cắt bởi vậy phải có các
chốt canh gác của kiểm lâm tại những vị trí đó (phải có chi tiết bao
nhiêu nhân viên trạm, có trang bi phương tiện hay không?) và phải duy
trì trạm kể cả giai đoạn tổ chức thi công: Giai đoạn đưa vào sử dụng
công trình?
Cần lưu ý: Bổ sung thêm biện pháp tìm kiếm, thu dọn chất độc hoá học
Công
trình thuỷ điện Đồng Nai 6A nằm trong khu vực bị rải chất độc hoá học
trong chiến tranh. Chất độc hoá học tồn tại rất bền vững trong đất, nên
nếu có sẽ làm ảnh hưởng sức khoẻ người dân và động vật trong vùng dự án
cũng như chất lượng nước hồ. Chủ dự án nên tìm hiểu chi tiết và thuê cơ
quan chuyên môn tiến hành thăm dò chất độc hoá học mặc dù hiện chưa có
báo cáo về chất độc hoá học khu vực này.
Việc
tìm kiếm và xử lý chất độc hoá học sẽ được cơ quan chuyên môn của Bộ
Quốc phòng tiến hành trong vùng ngập của hồ thủy điện, vùng mặt bằng
công trình trừ diện tích lòng các sông, suối, các khu dân cư, diện tích
đất canh tác, núi đá.
Công tác cần phải làm là
việc trinh sát tìm kiếm từ sơ bộ đến trinh sát kỹ thuật để phát hiện
chất độc hoá học, sau đó là bốc hót, vận chuyển và có biện pháp tiêu tẩy
các chất này cả ở trên mặt đất lẫn ở dưới lòng đất.
(6) Chương 5:
Chương trình quản lý và giám sát môi trường 26 trang.
Tại mục 5.2.7. Xây dựng mới trạm kiểm lâm (trang 346)
Chủ
đầu tư sẽ hỗ trợ xây dựng mới 1 trạm kiểm lâm nhằm tăng cường công tác
bảo vệ rừng. Chi phí xây dựng và vận hành của mỗi trạm như sau:
+ Chi phí xây dựng trạm và trang thiết bị cho trạm hoạt động: 1,5 tỷ VNĐ.
Nếu có thể nên chi tiết hơn về cơ sở hạ tầng của trạm kiểm lâm.
Chương 6 Tham vấn ý kiến cộng đồng
Tại mục 6.3. (Trang 357) Ý kiến của người dân trong khu vực khảo sát
Theo
kết quả khảo sát ý kiến của các hộ dân tại xã Phước Cát 2, Đồng Nai
Thượng, huyện Cát Tiên, tỉnh Lâm Đồng; xã Đồng Nai, huyện Bù Đăng, tỉnh
Bình Phước và xã Hưng Bình, huyện Đắk R’Lấp ở vùng lân cận dự án vào
tháng 02/2012 cho thấy đời sống của người dân còn khó khăn, chủ yếu làm
nghề nông. Kết quả khảo sát cho thấy người dân đều đồng tình với việc
xây dựng dự án thuỷ điện. Tuy nhiên, nhóm đại diện cộng đồng dân cư
có một số kiến nghị đối với dự án như sau:
- Chủ đầu tư cần có biện pháp cải thiện/nâng cấp các tuyến đường giao thông chính phục vụ cho dự án và người dân nơi đây.
-
Mong muốn khi dự án triển khai sẽ sử dụng tối đa nguồn lao động địa
phương tham gia vào dự án trong giai đoạn xây dựng và vận hành
nhà máy. Trong đó ưu tiên tạo điều kiện cho các hộ bị ảnh
hưởng chuyển đổi sinh kế phù hợp, có công ăn việc làm ổn định
để đảm bảo nhu cầu thiết yếu cuốc sống
-
Dự án khi đi vào hoạt động, một phần sản lượng điện được
tạo ra sẽ được cung cấp đảm bảo phục vụ nhu cầu sử dụng điện
cho người dân bản địa ở các thôn trên địa bàn.
-
Chủ đầu tư cần có chính sách đền bù thỏa đáng cho các hộ
bị ảnh hưởng về diện tích cây trồng và sinh kế người dân trong
vùng thực hiện dự án.
Vậy đại diện cộng
đồng dân cư là những ai? Danh sách của nhóm, phiếu tham vấn cộng đồng?
Đề nghị tác giả làm rõ hơn vấn đề này?
Một số điểm cần chú ý khác
1. So sánh diện tích mất đất của dự án ta thấy:
Diện tích mất đất:
Giai đoạn chưa có công văn số 1741/BNN-TCLN của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Vườn Quốc gia Cát
Tiên để triển khai xây dựng nhà máy thuỷ điện Đồng Nai 6A.
Bảng 01 : Thống kê diện tích xin cấp đất
TT | Địa danh | Đất rừng phòng hộ Nam Cát Tiên | Đất rừng phòng hộ Đồng Nai | Đất rừng Vườn quốc gia Cát Tiên | Đất sông suối,bãi đá | Tổng | |
(ha) | (ha) | (ha) | (ha) | (ha) | |||
A | KHU VỰC LÒNG HỒ | 31.12 | 44.36 | 28.57 | 132.95 | 237.00 | |
1 | xã Đồng Nai | 44.36 | 12.0 | 56.36 | |||
2 | xã Hưng Bình | 31.12 | 50.95 | 82.07 | |||
3 | xã Phước Cát 2 | 23.06 | 35.0 | 58.06 | |||
4 | xã Đồng Nai Thượng | 5.51 | 35.0 | 40.51 | |||
B | KHU VỰC CÔNG TRÌNH CHÍNH | 30.10 | 16.86 | 12.54 | 59.50 | ||
1 | xã Đồng Nai | 30.1 | 6.27 | 36.37 | |||
2 | xã Phước Cát 2 | 16.86 | 6.27 | 23.13 | |||
C | KHU VỰC XIN CẤP ĐẤT TẠM THỜI | 17.31 | 5.12 | 22.43 | |||
1 | xã Đồng Nai | 17.31 | 17.31 | ||||
2 | xã Phước Cát 2 | 5.12 | 5.12 | ||||
TỔNG | 31.12 | 91.77 | 50.55 | 145.49 |
Nguồn VQHTL
Diện tích mất đất: Giai đoạn có hiệu chỉnh hoạch Vườn Quốc gia Cát Tiên giảm nhiều như bảng 02.
-
Công văn số 1741/BNN-TCLN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về
việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch Vườn Quốc gia Cát Tiên để triển
khai xây dựng nhà máy thuỷ điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A.
-
Công văn số 45/TTg-KTN ngày 31/08/2011 của Thủ Tướng Chính phủ về việc
chuyển mục đích sử dụng rừng khu vực Cát Tiên sang xây dựng Dự án thuỷ
điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A.
- Công văn số
228/BNN-TCLN ngày 06/02/2012 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
về việc chuyển mục đích sử dụng rừng dự án thuỷ điện Đồng Nai 6 và Đồng
Nai 6A.
Bảng 02: thống kê diện tích xin cấp đất (Viện Tài nguyên MT) (trang 29 của báo cáo)
TT | Hiện trạng sử dụng đất | Đơn vị | Diện tích |
A | Khu vực xin cấp đất vĩnh viễn | 152,17 | |
1 | Khu vực lòng hồ | ha | 107,5 |
1.1 | Bờ phải thuộc vùng rừng phòng hộ Nam Cát Tiên | ha | 78,93 |
1.2 | Bờ trái thuộc phân khu phục hồi sinh thái | ha | 3,44 |
1.3 | Bờ trái thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt | ha | 25,13 |
2 | Khu vực công trình chính | ha | 44,67 |
2.1 | Bờ phải thuộc vùng rừng phòng hộ Nam Cát Tiên | ha | 27,81 |
2.2 | Bờ trái thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt | ha | 16,86 |
B | KHU VỰC XIN CẤP ÐẤT TẠM THỜI | 22,43 | |
1 | Khu vực trạm nghiền sang, kho mìn và đường vào rừng phòng hộ Nam Cát Tiên | Ha | 4,51 |
2 | Đường thi công, khu phụ trợ, nhà ở bờ phải thuộc vùng rừng phòng hộ Nam Cát Tiên | Ha | 12,8 |
3 | Đường thi công, bãi thải bờ trái thuộc phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. | Ha | 5,12 |
TỔNG CỘNG | 174,6 |
So với bảng 1 thì bảng 02 vì sao không thấy tính đất sông suối, bãi đá là bao nhiêu ?
Trong
báo cáo tham luận của Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam
(VACNE) tháng 9/2011, ông Hà Công Tuấn Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục Lâm
nghiệp (hiện nay là Thứ trưởng) cho biết đối với nhà máy thuỷ điện để
sinh ra 1MW điện thì trung bình mất 4 – 10 ha rừng. Trong khi đó, Nhà
máy thuỷ điện Đồng Nai 6A (Công suất lắp máy 106 MW, diện tích chiếm đất
174,6 ha) thì chỉ mất 1,647 ha rừng cho 1MW điện, cho thấy ở dự án này
nhỏ hơn 2,43 – 6,07 lần so với diện tích rừng trung bình mất đi khi làm
thuỷ điện.
2. Một số lưu ý:
Các
số liệu, hình vẽ trong báo cáo cần đề rõ nguồn cấp, các bản đồ trong
báo cáo 1 số bản đồ không thấy sử dụng các bản đồ số hoá, đề nghi bổ
sung các bản đồ số hoá (không dùng bản đồ chụp của Google map bởi việc
ứng dụng tư liệu viễn thám, công nghệ GIS trong công tác khảo sát, điều
tra thực địa để xây dựng hệ thống các bản đồ cho báo cáo là rất cần
thiết, việc ứng dụng công nghệ GIS để xây dựng các bản đồ là cơ sở khoa
học cho việc tính toán (đề nghị tư vấn nên bổ sung hệ thống bản đồ số hoá vào báo cáo).
- Trên đây là một số nhận định sơ bộ, cần có khảo sát thực tế , các tài liệu thực đo để minh chứng đối chiếu với báo cáo.
III Nhận xét về mô hình thủy văn-thủy lực.
Khi xây dựng mô hình toán phải thực hiện 5 bước chính như sau:
Bước 1:
Lựa chọn hệ phương trình cơ bản (governing equation): Các bài toán dòng
chảy 1,2 chiều đều sử dụng hệ phương trình Saint-Venant, riêng dòng
chảy qua công trình như cống đập thì dùng phương trình Bernoulli. Nói
chung để thiết lập các hệ phương trình cơ bản thường dùng nguyên lý bảo
toàn (khối lượng, động lượng).
Bước 2:
Xác định các tham số, điều kiện biên, điều kiện đầu: Trong các phương
trình thường có mặt các tham số, chẳng hạn hệ số nhám Manning trong
phương trình Saint-Venant. Các phương trình cơ bản (Governing) đề là các
phương trình đạo hàm riêng nên để giải nó cần có điều kiện biên và điều
kiện đầu.
Bước 3: Xây dựng thuật toán
số: Vì là các phương trình đạo hàm riêng không thể có lời giải giải tích
chính xác nên phải sử dụng phương pháp số để giải gần đúng.
Bước 4: Lập trình (programming): Vì cách giải (thuật toán: algorithm) rất phức tạp nên phải lập trình cho máy tính giải.
Bước 5: Việc thử tính đúng đắn của mô hình : Gồm 2 nội dung:
Hiệu
chỉnh mô hình (calibration): Trong mỗi mô hình đều chứa các tham số
(Chẳng hạn hệ số nhám Manning trong mô hình thủy lực), và cách sơ đồ hóa
điều kiện thực (chẳng hạn lấy các mặt cắt đặc trưng cho từng đoạn sông
trong mô phỏng) vì thế cần so sánh kết quả tính toán với các kết quả đo
đạc thực tế. Trong quá trình này phải hiệu chỉnh (modify) các tham sao
cho kết quả tính toán và đo đạc xấp xỉ nhau với độ sai khác có thể chấp
nhận được. Mặt khác vì là phương pháp số tính gần đúng cho nên qua hiệu
chỉnh sẽ biết được thuật toán (algorithm) được sử dụng đã tốt chưa, nếu
sai khác nhiều thì cần xem lại thuật toán (hay cách giải).
Kiểm
định mô hình (Verification): Sau khi chấp nhận kết quả hiệu chỉnh
(calibration) cần giữ nguyên bộ tham số và số liệu đã hiệu chỉnh và chạy
mô phỏng (simulation) với một điều kiện biên thực tế khác. Nếu kết quả
mô phỏng chấp nhận được thì ta chấp nhận mô hình để dùng cho thực tế.
Một mô hình đã trải qua 5 bước này được gọi là mô hình làm việc (operational model) và yên tâm sử dụng.
Theo
quy hoạch trên hệ thống sông Đồng Nai có 11 bậc thang thủy điện bao gồm
Đa Nhim, Đại Ninh, ĐN1, ĐN2, ĐN3, ĐN4, ĐN5, ĐN6, ĐN6A, ĐN8 và Trị An.
Ngoại trừ 5 nhà máy thủy điện đã hoạt động là Đa Nhim, Đại Ninh, ĐN3,
ĐN4 và Trị An, và 2 nhà máy đang xây dựng là ĐN2 và ĐN5. Để đánh giá sự
thay đổi dòng chảy trên sông sau khi 2 nhà máy trên được xây dựng, hệ
thống dòng chảy từ Đa Nhim về tới hồ Trị An đã được mô hình hóa bằng
phần mềm MIKE BASIN có khả năng đánh giá cân bằng nước, xem xét phân bổ
nguồn nước theo các kịch bản khác nhau; Hiện nay MIKE BASIN có cả mô đun
chất lượng nước nên cũng có thể phân tích đánh giá chất lượng nước ứng
với các kịch bản khác nhau cho vùng không ảnh hưởng triều. Kết quả của
MIKE BASIN sẽ là đầu vào quan trọng cho mô hình thủy lực MIKE 11 tiếp
theo.
MIKE 11 là mô hình thủy lực có khả năng
phân tích đánh giá chi tiết chế độ thủy lực thủy văn. Để xem xét đánh
giá các ảnh hưởng liên quan đến mực nước, dòng chảy, vận tốc,..., đặc
biệt đối với vùng ảnh hưởng triều, thì đây là công cụ rất hữu hiệu và
được ứng dụng nhiều.
Trong báo cáo ĐTM, về thủy
văn, thủy lực sử dụng 2 mô hình nói trên là đúng về phương pháp luận và
cách tiếp cận. Vấn đề đặt ra là quá trình và kết quả thực hiện có chính
xác và đủ độ tin cậy hay không?
Mặc dù thủy
điện ĐN6 và 6A chỉ là đập dâng nhưng vẫn có tác động đến dòng chảy sau
đập nhưng sự thay đổi này được so sánh với thời điểm nào? ĐN6 và 6A tuy
không thay đổi dòng chảy trung bình tháng nhưng sẽ làm thay đổi dòng
chảy ngày theo giờ. Điều này là đúng. Thủy điện đập dâng thường chạy phủ
đỉnh do vậy trong ngày nếu không phát điện thì sẽ tích nước, nếu tích
đầy hồ thì phải xả thừa. Khả năng điều tiết của hồ ĐN 6 và 6A là 15,5
triệu m3 và 9,6 triệu m3. Dòng chảy tự nhiên bình quân tháng kiệt nhất là 20,7 m3/s tại trạm Tà Lài, tính nhanh tại ĐN 6 là khoảng 15m3/s hay chỉ khoảng 1,5 triệu m3/ngày.
Dòng chảy này chỉ đủ để phát điện trong vài giờ và như vậy sau đập sẽ
chỉ có dòng chảy trong vài giờ mỗi ngày. Nếu thủy điện ĐN 3 và Daktih
vận hành trong mùa khô thì cũng chỉ làm dòng chảy ngày tăng lên khoảng
50-60m3/s hay trên 4 triệu m3/ngày. Có thể nói đây
là tác động tiêu cực nhất đến môi trường của thủy điện đập dâng. Nhưng
đối với cả thủy điện có hồ chứa lớn thì chế độ dòng chảy sau đập trong
mùa khô cũng biến động rất mạnh do phải vận hành phủ đỉnh.
Về bài toán với đập của thủy điện ĐN 6 và 6A. Với dung tích tổng cộng cả 02 hồ là gần 100 triệu m3 (ĐN 6 là 64,3 trieu m3
và 6A là 31,17 triệu m3) thì thiệt hại cho hạ du sau đập là đáng kể.
Tuy nhiên, khi về đến hồ Trị An thì không còn tác động. Mặt khác, nguy
cơ vỡ đập của đập bê tông thấp và khi xảy ra vỡ đập thì vết vỡ phát
triển chậm hơn đập đất nhiều lần nên lưu lượng dòng chảy sau đập ĐN6
cũng chỉ khoảng 1.000-1.500 m3/s. Lưu lượng này còn nhỏ hơn
lưu lượng lũ đến hồ nhiều lần (Q p0,5% = 8.530m3/s). Xin lưu ý sử dụng
mô hình MIKE 11 để tính thủy lực dòng sông là đúng nhưng sử dụng trong
bài toán vỡ đâp thủy điện với kịch bản 2 đập ĐN6 và ĐN6A cùng vỡ ở thời
điểm nước trong hồ ở cao trình mực nước dâng bình thường thì kết quả sẽ
rất hạn chế, không chính xác.
Tác động đến Bàu
Sấu: Trong báo cáo cho rằng Bàu Sấu là một hồ tự nhiên hình thành vào
mùa lũ trên một nhánh suối nhỏ chảy ra sông Đồng Nai. Chế độ thủy văn
của Bàu Sấu không phụ thuộc và chế độ thủy văn của dòng chính sông Đồng
Nai do vậy thủy điện ĐN 6 và 6A không tác động đến chế độ thủy văn của
Bàu Sấu!? Đây chỉ là lập luận không được minh chứng thuyết phục bằng mô
hình toán.
Thất thoát nước do thấm không được
tính toán mà lấy từ số liệu thiết kế. Cần xem lại điều kiện áp dụng công
thức tính lượng bốc hơi gia tang ở ĐN 6 và 6A? Vấn đề tự làm sạch hồ 2
chứa ĐN6 và ĐN6A sau khi tích nước làm ngập
không thuyết phục.
KẾT LUẬN
Báo
cáo ĐTM thực hiện được khá nhiều công việc tốt hơn hẳn so với báo cáo
ĐTM lần đầu tiên. Tuy nhiên, các mặt tồn tại như đã nêu ở trên phải được
nghiên cứu bổ sung giải trình cụ thể. Đặc biệt là phần tính toán mô
hình thủy văn, thủy lực không đủ độ tin cậy. Các mô hình cũng chưa được
hiệu chình.
Dự án Đồng Nai 6 sử dụng 77,36 ha
đất của Vườn quốc gia Cát Tiên và 77,99 ha đất của rừng phòng hộ đầu
nguồn. Dự án Đồng Nai 6A sử dụng 59,62 ha đất của Vườn quốc gia Cát Tiên
và 157,26 ha đất của rừng phòng hộ đầu nguồn - đều lớn hơn so với mức
quy định 50 ha tại Mục b Khoản 2 Điều 3 Nghị quyết số 49/2010/QH12 của
Quốc hội về những dự án phải lập Báo cáo đầu tư trình Quốc hội xem xét
quyết định về chủ trương đầu tư.
Các dự án thủy
điện Đồng Nai 6 và Đồng Nai 6A đều có trong các quy hoạch đã được duyệt
nhưng không phải là quy hoạch quốc phòng, an ninh còn Vườn Quốc gia Cát
Tiên thuộc quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học nên theo quy định tại
mục d Khoản 2 Điều 11 của Luật Đa dạng sinh học số 20/2008/QH12 ngày 13
năm tháng 11 2008 phải được ưu tiên thực hiện. Ngoài ra, tại Quyết định
số 1419/QĐ-TTG ngày 27 tháng 9 năm 2012 Thủ tướng Chính phủ đã xếp Vườn
Quốc gia Cát Tiên vào hạng Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt được bảo
vệ, giữ gìn theo Luật Di sản văn hóa ngày 29 tháng 6 năm 2001 29/6/2001
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa ngày 18
tháng 6 năm 2009.
Tóm lại: Báo cáo ĐTM
về dự án thủy điện ĐN6 và 6A chưa đủ điều kiện để Hội đồng thẩm định
của Bộ Tài nguyên & Môi trường xem xét, thông qua.
Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2012
Người viết nhận xét
Tô Văn Trường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét