Tương Lai
Câu chuyện sách
giáo khoa lớp ba né tránh việc chỉ rõ tên kẻ thù đang gây nên sự phẫn nộ.
Chuyện này có cái lý của nó khi mà thái độ đối với giặc ngoại xâm đang là điểm
quy chiếu chính tà mọi hành động của người Việt Nam xưa nay. Thế nhưng người viết
sách giáo khoa Tiếng Việt lớp ba ấy cũng có cái lý khi nói về mục tiêu quy định
nội dung biên soạn.
Thật ra, vấn đề
không chỉ động chạm đến công việc quen thuộc của nhà giáo, nó đặt ra một tầm vóc
lớn hơn nhiều. Nhân chuyện này xin bàn về một vấn đề chung, rộng hơn : vấn đề
sách giáo khoa trong sự nghiệp trồng người. May mắn là trong tay lại đang có
cuốn sách "Vấn đề dạy văn"
của nhà giáo Hồ Ngọc Đại với lời bạt
của nhà văn Ma Văn Kháng. Cả hai đều
là bạn, mà là bạn thân cơ đấy chứ không phải thấy sang bắt quàng làm họ đâu.
Tốt nhất là lượm lặt trong món quà vừa được tặng này vài ý tâm đắc ngỏ hầu góp
đôi điều vào chuyện lớn đang đặt ra kia.
Nhà văn thì nhã nhặn lưu
ý "Đại ơi! Quan tâm tới mức lo lắng
đến việc dạy văn trong nhà trường là tâm trạng của xã hội ta trong những ngày
này. Huống hồ là bọn
tôi, một số những nhà văn có đoạn văn và bài văn hiện có mặt trong sách giáo
khoa của học sinh từ bậc tiểu học đến trung học". Ma Văn Kháng thổ lộ
: "ở đời muôn sự là chung, giữa anh
và cánh nhà văn chúng tôi vẫn có một mẫu số chung đấy anh ạ. Thành ra, đọc sách
này của anh, cảm tưởng đầu tiên là thấy như đang đọc một áng văn, một áng văn
đầy cá tính"...Nhà giáo thì
vẫn thế, ngang như cua, nói toẹt ra : "Văn
chẳng là gì hết. Văn chỉ là văn thôi. Văn tức là cuộc sống nói một cách văn mà
thôi!... "Theo cách ấy, tôi
khoanh cái vùng "vấn đề dạy văn" ở chỗ nào có văn... Đối tượng nghệ
thuật có cái lý của nó là những quan hệ người đời. Văn là "sự vật thể
hóa" cái lý ấy theo kiểu văn ..". Thế rồi anh ta hạ một
câu có sức nặng ngàn cân của triết lý Hồ Ngọc Đại về chuyện dạy văn, học văn để
từ đó mà quy định việc soạn sách giáo khoa : "Dạy văn là nhằm tạo cho trẻ em một nhu cầu nhân văn, một năng lực thuần
túy người"! Đến đây thì quả là việc dạy văn và "chuyện sách giáo khoa" được đặt ra
ở cái tầm của tư duy triết lý trong sự nghiêp trồng người.
"Thời tiểu học là thời hình thành nhân cách,
với chất người và chất cá nhân, làm nên cái gốc văn hóa của đời người. Từ 0 đến
11/12 tuổi, em có chất văn hóa gì thì sau này văn hóa cá nhân em đặc trưng bởi
tính chất ấy". Quan điểm này Hồ Ngọc Đại trình bày trong "Giải pháp đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục Việt Nam". Cụ thể hơn, ở trang 15
của cuốn sách chỉ vỏn vẹn 35 trang kể cả mục
lục, in khổ nhỏ, kiểu bỏ túi, mà lại chữ to để cho mắt kèm nhèm cũng đọc được
mà tác giả tặng người viết này cách đây mấy tháng.Cầm cuốn sách trên tay mà
nghĩ bụng "hắn chơi chua với đời
đây, theo kiểu Voltaire : "Hai
mươi tập sách khổ lớn không bao giờ làm nổi một cuộc cách mạng; chính những
quyển sách nhỏ giá ba mươi xu mới thực sự đáng sợ" [Jamais vingt volumes in-folio ne feront de
révolution ; ce sont les petits livres portatifs à trente sous qui sont à
craindre].
" Chất người và chất cá nhân" làm nên
"cái gốc văn hóa của đời người"
gợi lại công trình nghiên cứu "Phạm
trù Người" của anh, bản thảo đánh máy chưa in dày 300 trang Đại chuyển
cho đọc cách nay đã hơn 20 năm. Từ ba trăm trang đánh máy ấy mà nội dung chắt
lọc lại thành chỉ mấy câu này trong loại sách "ba xu" Voltaire nói là
nó đây! Và chắc chắn không chỉ từ công trình đậm chất triêt học ấy, còn phải từ
nhiều công trình nghiên cứu đã in và chưa đưa in khác, mới chưng cất được 35
dòng trong cuốn sách "bỏ túi" kia. Phải bằng những công trình như vậy
của một người dành toàn bộ sự nghiệp và tâm huyết cả đời người cho chuyện
"trồng người" mới chưng cất
lên được mấy dòng chữ chắt lọc kia!
"Nghề chơi cũng lắm công phu" huống
hồ nghề dạy học, nghề làm khoa học, mà xét đến cùng, cái cần hướng tới không
thể là gì khác là con người, là chất người và chất cá nhân với cái gốc văn hóa của đời người! Cái
gốc văn hóa của đời người này được Hồ Ngọc Đại trình bày trong "Vấn đề dạy văn" với nội dung rất
súc tích cô đọng :" phải lấy sự sống
thực, sự cảm nghiệm của chính mình làm nền tảng. Sự phong phú về tâm hồn, về
văn chỉ là bông hoa của cây đời, mà lúc đầu chỉ là hạt giống được gieo trên mắt
đất phù sa đầy nhựa sống của cuộc đời " để từ đó mà đưa ra một kết
luận chắc nịch: "Cuộc sống là nguồn
gốc cuối cùng, là nơi xuất phát, nơi đi, nơi đến của quá trình hình thành tiếng
nói và văn".
Chính từ đó mà Ma
Văn Kháng hạ một lời khen cũng kiệm lời kiệm chữ súc tích không kém "Cuốn sách của anh như một tảng đá bật ra từ
cuộc sống...Cuốn sách có lối viết của một áng văn. Đó là một kết cấu đẹp với
những câu văn và ý tưởng đẹp. Sức quyến rũ của nó với tôi là sức quyến rũ của
cái đẹp!" . Rồi từ đó, nhà văn bạn tôi bộc bạch "với ai thì tôi không biết, nhưng với tôi thì
nó đã giúp tôi thoát ra khỏi bao nhiêu là ràng buộc không nên có đấy giáo sư ạ.
Ôi cái nghĩa đời, nghĩa văn giản đơn và sâu xa là vậy" của trái tim
anh...", và nhà văn bạn tôi đã "biểu
lộ sự đồng tình, hơn nữa, niềm cảm hứng tràn trề của một tri kỷ trươc rất nhiều
câu văn anh viết vừa phản ánh trình độ tư duy thấu đáo, kghoa học vừa mang hơi
ấm nồng nàn của trái tim anh".
Rõ ràng là cuốn sách bàn về chuyện dạy văn với
cách đặt vấn đề của nó đã vượt xa khung khổ của Bộ Giáo dục và Đào tạo, đây là
chuyện của cả xã hội. Vì rằng"cái lớn thì đủ sức bao dung
cái nhỏ, mà cái nhỏ không đủ sức nâng đỡ cái lớn" như Nguyễn Văn Siêu, danh sĩ triều Nguyễn
thế kỷ XVIII đã chỉ ra. Vậy mà "cái lớn" thì lại đang còn quá
nhiều vấn đề, ở đây xem ra "những chứng bệnh ngoài da" đã
chuyển vào "bên trong nội tạng" như lời cảnh báo của M. Gorki ngay sau Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 : “Cách
mạng đã đánh đổ nền quân chủ, điều đó đúng! Nhưng điều đó có lẽ cũng có nghĩa
rằng cuộc cách mạng đã mang chứng bệnh ngoài da vào bên trong nội tạng. Người ta
không được phép tin rằng cách mạng đã chữa trị và làm phong phú cho nước Nga về
mặt tinh thần". Vì thế, văn hào Nga chỉ rõ :"Dân tộc này còn phải được trui rèn trong ngọn lửa cháy không bao giờ
dứt của văn hóa".Để rồi
quyết liệt mà tuyên bố : “Đối với tôi,
lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi “Hỡi các công
dân! Văn hóa bị lâm nguy!”*
Ấy vậy mà, đâu chỉ
có "Vấn đề dạy văn" ! Gần
đây, trên báo Tuổi Trẻ ra ngày 20.8.2012 người ta còn đòi hỏi "Phải "lột xác" môn sử"
nữa cơ! Mà đây lại là lời của vị giáo sư đứng đầu ngành sử học Việt Nam. Những
người nghiên cứu lịch sử, theo ông, "sẵn
sàng cộng tác với Bộ GD-ĐT trong hành trình "lột xác" dạy và học môn
lịch sử này". Mà vì thế mà vị Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử khuyến cáo
phải "rà soát lại toàn bộ chương
trình, từ sách giáo khoa, phương pháp
giảng dạy đến công tác đào tạo giáo viên...".
Nhưng nếu chỉ thế thôi thì e lại rơi vào tình
thế của "cái nhỏ không đủ sức nâng đỡ
cái lớn" mà
danh sĩ triều Nguyễn đã chỉ ra. Để làm được tốt
việc soạn sách giáo khoa môn sử, phải chăng cần rà soát lại chất lượng của các
công trình nghiên cứu lịch sử, đặc biệt là phải thẳng thắn nhìn lại tính trung thực lịch sử của các công
trình nghiên cứu lịch sử đã được xuất bản. Để làm gì ? Để các nhà sử học dám
nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật về những sự kiện lịch sử đã được công
bố với những lời phán xét của các nhà sử học đôi lúc chưa thật khách quan và
trung thực, đặng nhặt ra những nhầm lẫn, xuyên tạc!
Chỉ xin nhắc lại
chuyện sách giáo khoa Tiếng Việt lớp ba lẩn tránh một chuyện lịch sử : chỉ rõ
tên kẻ thù xâm lược những năm 40 thời Hai Bà Trưng đã gây bức xúc trong công
luận vừa nói . Không phải ngẫu nhiên mà có sự phẫn nộ ấy. Vậy thì, sẽ phải phẫn
nộ thế nào khi lịch sử đương đại lại đang lảng tránh nói đến cuộc chiến tranh chống
xâm lược sau ngày 30.4.1975 tại biên giới Tây Nam và chiên tranh biên giới phía
Bắc. Cần biết rằng, trong cuộc chiến tranh biên giới, kẻ xâm lược đã sử dụng
đến 9 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn bộ binh độc lập (tổng cộng 32 sư
đoàn), 6 trung đoàn xe tăng, 4 sư đoàn và nhiều trung đoàn pháo binh, phòng
không. Lực lượng được huy động khoảng trên 30 vạn binh sĩ, 550 xe tăng, 480
khẩu pháo, 1.260 súng cối và dàn hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm
đội Nam Hải và 1.700 máy bay sẵn sàng phía sau để thực hiện một cuộc chiến
tranh tàn khốc đánh vào nước ta ngay khi những vết thương của hai cuộc chiến
tranh chống thực dân và đế quốc trên đất nước ta chưa kịp lên da non.
Đã đến lúc lịch sử
cần phải thật sòng phẳng và tường minh, không thể để "bỏ quên" một
cuộc chiến tranh chống xâm lược thâm hiểm và tàn khốc. May thay, những chứng
tích lịch sử vẫn còn đó chứ chưa đến nỗi như trước đây sử gia Ngô Sĩ Liên từng
xót xa :" Lửa đốt sạch, than ôi vận nước, sách vở đi đời. Muốn tìm sự tích sau cơn
khói lạnh tro tàn, thật rất khổ tâm về nỗi nét sai, chữ sót…”. Vấn đề đang đặt ra chính là các nhà sử
học phải đối diện với những đòi hỏi của lương tâm và trách nhiệm của chính
mình. Vậy thì liệu có phải "lột
xác" những công trình nghiên cứu lịch sử, trả về cho chúng giá trị
thật của chính nó không? Có vậy mới mong có những sách giáo khoa lịch sử hay,
cách dạy sử hấp dẫn khiến cho học sinh thích học sử, dần dần loại bỏ hiện tượng
đáng xấu hổ về điểm 0 môn Sử trong các kỳ tuyển sinh vừa qua !
Cần biết bao một
cuốn sách "về vân đề dạy sử"
na ná như cuốn sách về "vấn đề dạy
văn" của bạn tôi đây. Ở đó, vấn đề dạy văn, dạy sử phải được đặt ra ở
tầm tư duy chiến lược nhằm tạo ra "chất
người và chất cá nhân" làm nên "cái gốc văn hóa của đời người", người Việt Nam với bản lĩnh
"có cứng mới đứng đầu gió",
gió Biển Đông, vừa hiền hòa vừa giận dữ. Hiền hòa trong tiếng rì rào của biển
cả ngày đêm không mỏi vỗ sóng vào bờ. Và giận dữ trước mưu toan và hành động
xâm lược nham hiểm và trắng trợn của kẻ thù với cái lưỡi bò ghê tởm đang thè ra
định liếm trọn Biển Đông!
Ai sẽ làm chuyện
này đây?
Chao ôi, "Chút riêng chọn đá thử vàng, Biết đâu mà gửi
can tràng vào đâu"?
TL
9/2012
_________________
* Maxim Gorky Những ý tưởng không hợp thời đăng trên nhật báo Novaja Žizn (Đời Mới) trong những năm 1917-1918.
NXB Surkamp taschenbuch của Đức ấn hành năm 1974
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét