Về bài viết «
Giá
trị pháp lý của bản đồ » đăng trên báo Pháp
Luật và Quĩ
Nghiên cứu Biển Đông
Trong bài
này, tác giả Tiến Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu cho rằng : « Trong các tranh
chấp lãnh thổ theo luật quốc tế, bản đồ thường đóng vai trò quan trọng và đôi
lúc quyết định đến sự thắng - thua của các bên trong tranh chấp. »
Để chứng minh, Tiến
Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu dẫn các vụ án của các tòa án quốc tế phân xử các vụ
tranh chấp lãnh thổ và biên giới, gồm có : 1/ Tranh chấp giữa
Ấn Độ và Pakistan, 2/ Vụ xét xử giữa Eritrea và Yemen, 3/ Tranh chấp đền Preah
Vihear, 4/ Tranh chấp biên giới giữa Burkina Faso và Mali và 5/ Tranh chấp giữa
Indonesia và Malaysia.
Sau khi tham khảo hồ sơ các vụ án này, tôi nhận thấy kết luận của Tiến Sĩ, Luật Sư Lê Minh Phiếu là hoàn
toàn không phù hợp với nội dung của các vụ án. Trong năm vụ án dẫn ra, không có
vụ án nào mà Tòa sử dụng các bản đồ được như là một bằng chứng, chứ đừng nói tới
việc « bản đồ thường đóng vai trò quan trọng và đôi lúc quyết định đến sự
thắng - thua của các bên trong tranh chấp » như nhận định của tác giả.
Tôi tóm lược sơ lược diễn biến và kết quả các vụ án trình bày lại sau
đây để mọi người tường lãm. Theo ý kiến của tôi, vấn đề tranh chấp HS và TS rất
là quan trọng cho VN và tôi luôn nghĩ rằng VN sẽ thắng kiện TQ nếu vấn đề được
đưa ra một tòa án quốc tế. Nhưng từ mặt trận truyền thông đã thế này thì làm
sao có khả năng thắng trên mặt trận pháp lý ?
1/ Tranh chấp
Ấn Độ và Pakistan tại vùng « Rann Of Kutch »
Ấn Độ và
Pakistan được xứ bảo hộ Anh trả độc lập qua Hiệp ước « L’Indian
Independence Act » ngày 18-7-1947. Lãnh thổ hai bên được xác định : Ấn
Độ gồm các vùng đất trước kia thuộc Hoàng gia Anh, ngoại trừ vùng lãnh thổ được
gọi là Pakistan. Pakistan được xác định bằng một số đơn vị hành chánh (tỉnh) nhứt
định, trong đó có tỉnh mang tên Sind. Một số khu vực khác, gọi là tiểu quốc « Native
States », như Kutch, Suigam, Wav, Jodhpur… thuộc Anh, thì gia nhập vào Ấn
Độ. Tiểu quốc Kutch nhập vào Ấn Độ qua kết ước ký ngày 4-5-1948.
Tiểu quốc
Kutch giáp ranh với tỉnh Sind. Biên giới hai nước Ấn Độ và Pakistan khu vực này
trùng hợp với biên giới giữa tỉnh Sind và tiểu quốc Kutch. Tháng 5 năm 1947, tiểu
vương Kutch có yêu cầu bang Sind cắm mốc đánh dấu biên giới hai lãnh thổ. Ngày
14 tháng 7 năm 1948, Cao ủy Pakistan tại Ấn Độ trả lời rằng việc cắm mốc giới
không thể thực hiện vì biên giới trong vùng có nơi tranh chấp chưa giải quyết.
Nhiều văn thư được trao đổi giữa hai bên về vấn đề này nhưng không đi đến đâu,
trong lúc nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra. Cho đến 30-6-1965, hai bên Ấn Độ và
Pakistan ký kết một thỏa thuận về giải quyết tranh chấp biên giới. Hai bên đồng
ý việc tranh chấp sẽ được giải quyết bằng thương lượng cấp bộ trưởng hay bằng một
trọng tài.
Khác biệt về
quan điểm của hai bên được ghi nhận ở điều 3 của thỏa ước :
Quan điểm của
Ấn Độ : Nước này cho rằng không có vấn đề tranh chấp biên giới. Ở khu vực
đã hiện hữu rõ rệt một đường biên giới chạy dọc theo bờ phía bắc đầm lầy Rann
(Rann Of Kutch), như đã thể hiện trên những tấm bản đồ vẽ trước khi phân chia
năm 1947. Đường biên giới này chỉ cần xác định bằng các cột mốc trên thực địa.
Quan điểm của
Pakistan : biên giới hai nước đi qua đầm lầy Rann, theo gần đường vĩ tuyến
24° như đã thể hiện theo nhiều tài liệu trước và sau khi phân chia năm 1947.
Khác biệt lãnh thổ lên đến 9.000 cây số vuông.
Bản đồ tiểu bang Kutch (nguồn Wikipedia).
Vùng tranh chấp như
vậy là vùng đầm lầy Rann (Rann Of Kutch).
Tiểu quốc Kutch
hoàn toàn bao bọc bởi vùng địa lý có tên Rann (phía bắc là Rann lớn, phía nam
là Rann nhỏ). Vào mùa mưa, vùng Rann bị nước phủ do mưa và lưu lượng nước từ
các con sông đổ vào, do đó mực nước cao hơn mực nước biển, tạo thành một vùng
đầm lầy rộng khoảng 9.000 cây số vuông. Trong đầm rải rác có một số cù lao (gọi
là bet). Những cù lao này hoàn hoàn cỏ hoang mọc, không có người ở. Cuối mùa
mưa, nước rút đi, tạo ra một vùng bùn lầy, trong đó sa mạc muối bao phủ phần
lớn. Giá trị kinh tế của muối vì thế là động lực của tranh chấp.
Tranh chấp được hai bên đưa ra tòa Trọng Tài
(PCA) giải quyết ngày 19-2-1968. Hồ sơ hai bên đệ lên Tòa lên tới trên 10.000 trang tài liệu. Tranh tụng
và phán quyết của Tòa cũng dài đến 150 trang, chưa kể các ý kiến tranh tụng
ngoài luồng.
Hồ sơ của Ấn Độ : Giữ nguyên ý kiến theo thỏa thuận ký với
Pakistan ngày 30-6-1965, theo đó không hề có tranh chấp biên giới vì biên giới
trong khu vực đã được xác định bằng bờ phía bắc của đầm lầy Rann như thể hiện
trên các bản đồ vẽ trước năm 1947. Biên giới này chỉ cần cắm mốc trên thực địa.
Phía Ấn Độ cho
rằng, từ tiền bán thế kỷ 18, lãnh thổ của tiểu vương Kutch vượt quá đầm lầy
Rann (lớn), qua đến lãnh thổ Sind, do đó đầm lầy Rann (lớn) phải thuộc về Ấn
Độ. Mặc dầu nhiều lần quân của Sind vượt qua Rann để tấn công Kutch, tiểu vương
Kutch mất đi vùng lãnh thổ đã lấy của Sind trước kia nhưng vùng Rann vẫn thuộc
về Kutch. Thời thuộc Anh, trong vòng 75 năm, tiểu vương Kutch mỗi năm xác định
trong báo cáo gởi lên mẫu quốc là vùng Rann thuộc về Kutch. Chưa bao giờ nhà
cầm quyền ở Bombay, chính phủ Ấn hay Bộ ngoại giao Anh phản đối việc này. Mặt
khác, giấy tờ hành chánh hoàng gia Anh, tài liệu thống kê, báo cáo hành chánh
địa phương, báo chí, ghi chú… thường xuyên nghi nhận rằng Rann thuộc về Kutch.
Thêm nữa, từ năm 1871, các tấm bản đồ do Sở địa hình của nhà nước Ấn thành lập,
luôn vẽ biên giới giữa hai vùng Sind và Kutch là bờ bắc của đầm lầy Rann.
Theo nhà nước Ấn, một
dữ kiện có ý nghĩa quyết định là nghị quyết của nhà nước Bombay năm 1914, nhìn
nhận một thỏa thuận về biên giới năm 1913 ký kết giữa lãnh đạo hai vùng Sind và
Kutch. Nội dung nghị quyết cho thấy nhà nước Bombay nhìn nhận biên giới giữa
hai vùng Sind và Kutch là đường vẽ chấm màu xanh lá cây, bắt đầu từ cửa vịnh
Sir cho đến đầu trên của vịnh này, sau đó nhập vào đường vẽ chấm màu xanh.
Đường biên giới theo đường thẳng vẽ bằng chấm màu xanh đi về hướng tây, cho tới
khi gặp đường biên giới màu đỏ theo như sơ đồ kèm theo dưới đây :
Hình trên: Đồ tuyến đường biên giới theo thỏa thuận giữa lãnh đạo hai
vùng Sind và Kutch năm 1913, được Nhà nước Bombay nhìn nhận theo nghị quyết năm
1914.
Nghị quyết này thể hiện sự đồng thuận về biên giới giữa hai bên tranh
chấp năm 1913. Theo đó Tiểu vương Kutch đòi toàn vùng từ cửa vịnh Sir theo như
đường xanh lá cây trên bản đồ. Phía Sind thì cho rằng đường biên giới phải từ
cửa vịnh Khori, theo đường đỏ cho tới giao điểm 3 biên giới (hai vùng Taluka và
Rann), như vẽ trong bản đồ. Kết quả đồng thuận hai bên, đường biên giới là
đường chấm màu xanh, phân chia vùng tranh chấp ra làm hai, mỗi bên một phần.
Phía Ấn Độ cũng cho rằng, nghị quyết xác định giao điểm giữa đường xanh
lá cây (đề nghị của bên Kutch) với đường đỏ (đề nghị của bên Sind), mà đường đỏ
trên bản đồ ghi chú “biên giới vùng Sind”. Đường này đi tiếp về phía tây, dựa
bên bờ phía bắc của đầm lầy Rann, cho đến giao điểm của các biên giới các tiểu
bang Sind, Kutch và Jodhpur.
Sự việc này cho thấy đường biên giới đã được xác định. Một phần biên
giới theo đường đỏ, từ giao điểm biên giới (hai vùng Taluka (1 và 2) và Rann)
cho đến giao điểm giữa đường đỏ với đường chấm màu xanh, vào năm 1924, theo yêu
cầu của tiểu vương Kutch và do chi phí của hai bên (Sind và Kutch), đã được
đóng cột mốc. Phần còn lại của đường đỏ thì chưa bao giờ được cắm mốc.
Phía Ấn Độ cũng đưa ra sự việc, theo họ là đặc biệt quan trọng, năm 1935,
tỉnh Sind được tách ra theo hiệp ước “Government of India Act”. Chiếu theo nội dung
hiệp ước, Ủy viên Anh tại Sind soạn thảo và đệ trình lên Nhà nước Bombay
tình trạng tỉnh Sind, theo đó biên giới tỉnh này được mô tả là bờ
phía bắc của đầm lầy Rann. Việc này được nhà nước Bombay chấp thuận. Nhưng cuối
cùng thì nhà nước Bombay lại không đưa vào văn bản chính thức những mô tả về
tỉnh Sind (theo đó biên giới là bờ phía bắc đầm lầy Rann). Theo Ấn Độ, việc này
không làm mất đi tính pháp lý của đường biên giới ở vùng này.
Theo nước này thì việc tranh chấp lãnh thổ là có thực,
liên hệ đến một vùng đất có diện tích khoảng 9.000 cây số vuông. Đường biên giới
tại đây là đường khá tương đồng với đường vĩ tuyến 24°, phù hợp với với nhiều
tài liệu trước cũng như sau việc phân chia lãnh thổ.
Các lập luận
chính của phía Pakistan như sau: Nước này nhấn mạnh ở việc lãnh thổ Kutch
thường xuyên bị quân Sind xâm nhập. Điều này chứng tỏ rằng lãnh đạo Sind đã có
hành vi kiểm soát thực hữu đối với vùng đầm lầy Rann.
Trong khi các đồn lũy do phía Kutch thành lập trên
lãnh thổ Sind chỉ mang tính chất tạm thời, nhiều lắm là 20 năm.
Phía Pakistan cũng vịn vào thái độ của các quan chức
người Anh, hay các viên chức hành chánh địa phương, theo đó Rann là vùng biên
giới, hoặc là đường biên giới ở khoảng giữa đầm lầy Rann.
Nước này cũng nhấn mạnh ở sự việc đầm lầy Rann phải được
xem như là một vùng thuộc về biển (marine feature), hoặc là một đơn vị phân
chia được (dividing entity), hay là một vành đai biên giới (belt of boundary)
mà ở đó các quốc gia kế cận có thể thiết lập chủ quyền trên các cù lao.
Vì đó là một vùng thuộc về biển, Pakistan cho rằng phải
áp dụng nguyên tắc phân chia theo đường
trung tuyến, hoặc phải áp dụng nguyên tắc cận bờ, bằng không phải theo nguyên tắc
phân chia công bằng (équitable). Phía Pakistan nghĩ rằng các nguyên tắc này đã
được Nhà nước Anh áp dụng để xác định chủ quyền các cù lao cho các tiểu quốc
chung quanh vùng Rann (nhỏ) hoặc ở vùng đông bắc Rann (lớn).
Về các bằng chứng cho thấy biên giới giữa hai vùng
Sind và Kutch chưa bao giờ được giải quyết, phía Pakistan dẫn ra các sự việc xảy
ra từ các năm 1875, 1885, 1905 và năm 1938. Pakistan cho rằng các sự việc này
chứng tỏ Nhà nước Anh không muốn lấy một quyết định dứt khoát về vấn đề biên giới
ở đầm lầy Rann.
Cuối cùng, Pakistan cũng đưa ra rất nhiều bằng chứng cho
thấy quan chức địa phương hay thẩm quyền Anh ở vùng Sind đã hành sử quyền tài
phán của họ trên một phần đầm lầy Rann. Đặc biệt các bằng chứng là các sinh hoạt
về trồng trọt, đánh cá, thả gia súc ra các đồng cỏ… đặc biệt tại các vùng Chhad
Bet, Dhara Banni và Pirol Valo Kun. Phía Pakistan cho rằng các sinh hoạt đó được
sự bảo vệ và ủng hộ của chính quyền Anh, và các sinh hoạt đó có tầm quan trọng
sống còn cho dân chúng Sind sống ở quanh bờ đầm lầy Rann. Pakistan cho rằng, đối
diện với các hành vi pháp lý của chính quyền Sind trên vùng phía bắc đầm lầy
Rann, là sự thiếu vắng hoàn toàn chính quyền Kutch, nhất là thời kỳ trước năm
1926, ở vùng phía bắc đầm lầy Rann. Sự kiện thẩm quyền Kutch muốn đặt quyền tài
phán tại đây năm 1926 đã thất bại.
Phán quyết của
tòa án.
Về giá trị của các bản đồ, tương tự như các vụ án sẽ
nói bên dưới, Tòa cho rằng tự nó, các bản đồ không có một trọng lượng đặc biệt.
Chúng chỉ có thể có một giá trị khi được dựa vào các yếu tố ngoại tại, như được
sự phê chuẩn hay được sự chuẩn duyệt chính thức của các viên chức ở cấp cao, đồng
ý cho bản đồ có một giá trị cao hơn. Trong trường hợp tranh chấp này, do hệ quả
của việc nhiều lần in ấn các bản đồ chính thức, cùng phối hợp với các hành vi
khác hay sự thiếu sót của nhà cầm quyền Anh, Tòa cho rằng các tấm bản đồ có thể
được chú ý nhiều hơn.
Trường hợp thứ nhứt, ý kiến của Tòa là không có tấm bản
đồ nào, kể cả tấm bản đồ đính kèm nghị quyết năm 1914 do Ấn Độ dẫn ra, đều
không có một trọng lượng đặc biệt.
Tòa cho rằng, không hề có một đường biên giới lịch sử
đã được nhìn nhận, cũng như không hề hiện hữu một đường biên giới được thiết lập
một cách rõ rệt ở trong vùng tranh chấp
Phán quyết của Tòa không hề dựa lên bất kỳ tấm bản đồ nào, mà dựa lên các sự việc hành sử
quyền chủ quyền (droit de souveraineté) như thuế má, anh ninh, cảnh sát… của
các bên trong vùng tranh chấp. Phía Pakistan chứng minh được các hành vi hành
sử quyền chủ quyền (effectivité) của Sind trên các vùng Dhara Banni và Chhad
Bet, các vùng này thuộc về nước này.
Bản đồ dưới
đây là đường biên giới theo phán quyết của Tòa, theo đó Ấn Độ được 90% diện
tích, Pakistan 10% diện tích vùng lãnh thổ tranh chấp.
2/ Tranh chấp Yemen-Erythrée
Tranh chấp Erythré và Yemen về chủ quyền các đảo ở
Hồng hải, được Tòa Trọng tài xử ngày 9-10-1998. Đây là một trường hợp cần được
nghiên cứu sâu xa. Ở đây chỉ lướt qua những nét chính.
Hai bên đều
cho rằng mình có danh nghĩa chủ quyền lịch sử ở các đảo tranh chấp. Erythrée
vịn vào lý do trước kia chủ quyền các đảo thuộc về Ý, sau đó chuyển sang cho
Ethiopie sau Thế chiến thứ II (Erythrée thuộc Liên bang Ethiopie từ năm 1962,
đến năm 1993 thì tuyên bố độc lập). Tức là Erythrée dựa vào thuyết « liên
tục quốc gia ». Trong khi Yemen vịn vào thuyết « reconversion »,
theo đó Yemen đã có danh nghĩa chủ quyền từ thời trung cổ, danh nghĩa này vẫn
còn tồn tại trong thời bị lệ thuộc đế quốc Ottoman, cuối cùng Yemen lấy lại do
công ước Lausane.
Tòa bác bỏ lý
lẽ của Erythrée, vì cho rằng Erythrée không thể kế thừa cái mà nhà nước tiền
nhiệm đã từ bỏ. Thật vậy, Ý đã tuyên bố từ bỏ chủ quyền các đảo từ năm 1947.
Tòa bác Tòa
cũng bác lý lẽ của Yemen, bởi vì, theo Tòa, thuyết « Reconversion »
mà Yemen nại ra thì không được luật quốc tế nhìn nhận.
Một số bản
đồ cũng được đệ trình trước tòa. Về việc này ý kiến của Tòa : “cần phải hết
sức thận trọng về việc sử dụng những tấm bản đồ này như là bằng chứng”. Ta
thấy, sau khi tham khảo hồ sơ vụ án, các tấm bản đồ chỉ giúp cho Tòa ở việc xác
định đảo thuộc khu vực hành chánh nào, Châu Phi hay Ả Rập, chứ không phải là
một bằng chứng để chứng minh đảo này thuộc phía này hay thuộc phía kia.
Kết quả
phân xử, mỗi đảo Tòa đưa ra một lý lẽ khác nhau, một nguyên tắc luật học khác
nhau :
-
đảo Mohabbakah,
Yemen vịn vào danh nghĩa lịch sử để đòi hỏi, thì được Tòa phán giao cho
Erythrée với lý do đảo này nằm trong vùng lãnh hải 12 hải lý của nước này. Bởi
vì, theo công ước Lausane, được ký kết giữa các bên liên quan (hay nhà nước tiền
nhiệm của các bên), thừa nhận rằng các đảo nào nằm trong vùng lãnh hải của nước
nào thì đảo đó thuộc về nước đó. Thời kỳ đó lãnh hải chỉ có 3 hải lý. Tòa đã dựa
lên nguyên tắc về tính « thời hiệu -contemporanéité » để lấy quyết định
này.
-
Về
đảo Haycock, Tòa cho rằng đảo này ngày trước thuộc thẩm quyền Ottoman và thuộc
vùng hành chánh Châu Phi. Đến thời thuộc địa, đảo này thuộc kiểm soát của Ý.
Tòa phán rằng đảo Haycock thuộc về Erythrée vì nó ở gần bờ nước này. Tòa
ra quyết định như thế là dựa lên nguyên tắc « cận bên - proximité
géographique », bởi vì phía Yemen không đưa ra được một dữ kiện nào cho thấy
nước này có một danh nghĩa bất kỳ,
cao hơn lý thuyết đã dẫn (như danh nghĩa lịch sử, danh nghĩa pháp lý, danh
nghĩa do « effectivité », danh nghĩa do hành sử quyền chủ quyền…).
-
Về
hai đảo Hanish và Zukar, Tòa bác bỏ lý lẽ của Yemen (thuyết reconvertion) cũng
như bác bỏ lý lẽ về “kế thừa” của Erythrée. Tòa cũng cho rằng dưới thời Ottoman
thì hai đảo này không thuộc khu vực hành chánh của Châu Phi. Tức là Tòa không
nhìn nhận lý lẽ về « chủ quyền lịch sử » của cả hai phía. Tòa ghi nhận
rằng một số bản đồ ghi nhận hai đảo này thuộc Yemen. Mặt khác, tòa cũng ghi nhận
việc xây dựng và bảo trì một số đèn pha trên hai đảo này chúng tỏ sự « có
mặt » của Yemen trên các đảo này. Đặc
biệt về đảo Zukar, cả hai bên đều không chứng minh được danh nghĩa lịch sử cũng
như hành vi nhà nước chiếm hữu hòa bình và liên tục ở đây. Tòa dựa lên nguyên tắc
« effectivité » để xét và thấy rằng trong nhiều thập niên Yemen đã có
một số hành vi có thể xem là thể hiện thẩm quyền quốc gia. Vì thế Tòa phán đảo
Zukar thuộc về Yemen. Về đảo Hanish, Tòa cho rằng trong thời kỳ Ottoman, đảo
này thuộc khu vực hành chính Ả Rập. Mặt khác, Yemen cũng chứng minh được một số
hành vi được xem là thể hiện thẩm quyền quốc gia. Vì vậy đảo này tòa cũng phán
rằng nó thuộc về Yemen.
-
Cuối
cùng, hai đảo Jabal al-Tayr et Zubayr đều được Tòa phán cho Yemen. Lý do, Yemen
đã thể hiện một số hành vi « efectivité » như xây dựng và bảo trì các
đèn pha, điều này chứng minh sự hiện hữu của Yemen tại các đảo này. Mặt khác,
những hoạt động thăm dò và khai thác dầu khí trong khu vực đã được Yemen thực
hiện mà không có sự phản đối nào từ phía Erythrée (cũng như Ethiopie). Như vậy
quyết định của Tòa ở đây là dựa lên nguyên tắc « effectivité » và lý thuyết « acquiescement ».
3/ Tranh chấp Thái-Miên về
ngôi đền Preah Vihear:
Tranh chấp
Thái Lan và Kampuchia về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear, nguyên nhân do từ một
tấm bản đồ 1908, kết quả công trình phân giới theo công ước Pháp và Thái 1904.
Theo văn bản 1904 thì ngôi đền thuộc lãnh thổ Thái nhưng theo bản đồ 1908 thì ngôi
đền nằm trên lãnh thổ của Miên. Tranh chấp đưa ra Tòa CIJ phân xử ngày 15-6-1962.
Quyết định của Tòa không hề dựa lên tấm bản đồ 1908 mà dựa lên thái độ của Thái
trong một thời gian dài đã không phản đối tấm bản đồ (vẽ sai) này. Tòa dựa lên
nguyên tắc « estoppel » phán rằng, vì Thái đã không phản đối tấm bản
đồ này cũng như đã hưởng những lợi ích đến từ công ước 1904 trong một thời gian
dài, trước không khiếu nại thì bây giờ không có lý do gì Thái lại khiếu
nại. Kampuchia có chủ quyền ở
ngôi đền.
Nội dung tóm tắt từ bài
viết trước đây như sau :
Ngôi đền Preah Vihear :
Ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên mỏm núi cao 625 mét, nhìn xuống bình
nguyên Kampuchia, thuộc rặng núi Dang Rek (là biên giới giữa hai nước Thái-Miên
đã được phân định theo các hiệp ước Pháp-Thái 1904 và 1907 về phân định biên
giới, sẽ nói bên dưới), tọa độ kinh độ 14°23’ 18° đông, vĩ độ 104°41’ 02° bắc,
cách Nam Vang khoảng 400 km về hướng bắc và cách đền Angkor Vat khoảng 140 km
về hướng đông-bắc. Khu vực đền Preah Vihear tập hợp nhiều kiến trúc, có diện
tích khoảng 20 héc-ta, xây dựng theo chiều dài như hình 1a và 1b. Theo các nhà
khảo cổ, ngôi đền được xây dựng, sau đó được tu bổ và sửa chữa, khoảng từ thế
kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 12. Những ghi chú (bằng chữ Phạn và chữ Khmer) trên các
tấm bia ở trong đền cho thấy các triều đại có đóng góp vào việc xây dựng và
trùng tu là các triều đại Yacovaraman (889-910), Suryavarman I (1002-1049) và
Suryavarman II (1112-1162). Đây là một di dản văn hóa lớn của nhân loại, được
UNESCO công nhận từ năm 2008. Ngôi đền có kiến trúc đặc sắc văn minh Ấn Độ, thờ
thần Shiva (Ấn Độ Giáo) sau trở thành chùa Phật giáo. Kiểu mẫu kiến trúc đền
này được xem như là tiền thân của các kiến trúc được xây dựng hàng thế kỷ sau
như ở Angkor Vat, là những thể hiện sự huy hoàng của nền văn minh Khmer. Hiện
nay đền được gọi qua hai tên : tên Khmer là Preah Vihear, tên Thái là Khao
Phra Viharn, cùng có nghĩa là « đền thờ thánh ». Đền thuộc tỉnh Preah
Vihear (Kampuchia), tiếp giáp với tỉnh Sisaket (Thái Lan) phía đông bắc.
Từ phía Kampuchia, địa hình mỏm núi rất cheo leo, vách đá hình thẳng
đứng, từ đây lên đền thiêng rất khó khăn, vì đường đi là một con đường hẹp,
chênh vênh đẻo vào núi đá thành từng bậc thang, rất nguy hiểm. Về phía Thái Lan
thì địa hình thoai thoải theo dốc lài, do đó từ phía Thái Lan lên đền thiêng
rất dễ dàng. Từ 2008, sau khi ngôi đền được UNESCO công nhận là di sản văn hóa
và lịch sử của nhân loại thì từ phía Kampuchia, một con đường làm bằng những
bậc thang gỗ từ đồng bằng lên đến đền. Xem hình 2.
Hình 1a : Quần thể
đền Preah Vihear.
Hình 1b : quần thể
Preah Vihear nhìn từ một góc khác.
Hình 2 : đường dẫn
bằng cầu thang gỗ, mới làm sau năm 2008, từ phía Kampuchia lên đền.
Sau khi độc lập năm 1953,
nhận thấy phía Thái Lan vẫn còn chiếm đóng khu vực ngôi đền Preah Vihear, mặc
dầu theo các cuộc phân định Pháp-Thái trong quá khứ đã để khu vực ngôi đền
thuộc về Kampuchia, ông hoàng Sihanouk lên tiếng qua các văn kiện ngoại giao
yêu cầu Thái trả lại chủ quyền ngôi đền cho Cambodge (là tên nước Miên lúc đó,
sau này đổi lại là Kampuchia). Trước đó, năm 1949, nước Pháp nhân danh là nước
bảo hộ, cũng đã hai lần lên tiếng yêu cầu Thái trả lại ngôi đền nhưng không có
kết quả. Do đó Sihanouk đưa vấn đề tranh chấp, trước hết ra ONU, nhưng tại đây
tuyên bố không nhận phân giải những tranh chấp về chủ quyền, biên giới ;
do đó phải đưa qua Tòa Án Quốc Tế CIJ (Cour Internationale de Justice – La
Haye). Nội vụ tranh chấp được phân xử, theo phán quyết CIJ ngày 15-6-1962, ngôi
đền thuộc về Kampuchia, đúng theo đường biên giới vẽ trên bản đồ đính kèm các
công ước về biên giới Pháp-Thái
23-3-1907.
Đường biên
giới qui ước :
Biên giới hai bên Thái
Miên đã được chính phủ bảo hộ Pháp phân định cùng với nhà nước Thái qua hai
thời kỳ 1904 và 1907. Điều 1 của Hiệp ước 1904 qui định hướng đi đường biên
giới, nội dung được tạm dịch như sau :
Khoản
1 : Biên giới giữa Đông Dương thuộc Pháp và Xiêm bắt đầu từ một điểm ngoài
biển, đối diện với điểm cao nhất của đảo Koh Kut. Từ điểm này (đường biên giới)
theo hướng đông bắc đến đỉnh Phnom Kravanh. (Hai bên) xác quyết rằng trong mọi
trường hợp, triền phía đông của những ngọn núi, bao gồm toàn bộ lưu vực Klong
Kopo, thuộc về Đông Dương thuộc Pháp.
Đường
biên giới qua các đỉnh của rặng núi Phnom Kravanh theo hướng bắc đến Phnom
Thom, (là điểm) nằm trên đường phân thủy chính của các con sông chảy vào vịnh
Thái Lan và những con sông chảy Biển Hồ. Từ Phnom Thom đường biên giới thoạt
tiên theo hướng đông bắc, sau đó chuyển qua phía bắc, ranh giới hiện tại giữa
các tỉnh Battambang một bên, và của tỉnh Chantaboun và tỉnh Krat một bên, cho
đến điểm mà tại đó đường biên giới này cắt dòng sông mang tên là Nam Sai. Sau
đó đường biên giới theo con sông này cho đến hợp lưu của nó với sông Sisophon,
theo sông này cho đến điểm cách tỉnh Aranh 10 km về phía hạ lưu. Cuối cùng từ
điểm chót này, đường biên giới theo một đường thẳng đến một điểm trên rặng
Dang-Rek, khoảng giữa hai cửa ải gọi là Chong-Ta- Koh và Chong-Sa-Met. Việc này
được hiểu là đường (biên giới theo đường) thẳng vừa nói để lại con đường trực
tiếp nối Aranh và Chong-Koh-Ta thuộc về đất Xiêm.
Từ
điểm ghi trên, ở trên đỉnh của rặng núi Dang Rek, đường biên giới theo đường
phân thủy giữa lưu vực Biển Hồ và sông
Mekong một mặt, với lưu vực sông Nam Meun mặt khác, và dẫn đến sông Mekong ở hạ
lưu của Pak-Moun, ở cửa sông Huei-Done, theo đúng như đồ tuyến đã được chấp
nhận của ủy ban phân định ngày 16 tháng giêng năm 1907.
Một sơ đồ đường biên giới được mô tả ở trên được đính kèm theo đây
(hình 3 và hình 3a).
Hình 3 : Bản đồ phân định
đính kèm hiệp ước 16 tháng giêng năm 1907 do hai ủy ban « Bernard » và « Monguers » thực hiện từ 1903
đến 1907.
Hình 3a : Khu vực ngôi đền
Preah Vihear và đường biên giới trong khu vực được họa theo bản đồ đính kèm
công ước.
Như thế phần lớn đường
biên giới Thái-Miên, kể cả vùng cận đền Preah Vihear, được xác định bằng rặng
núi Dang Rek, theo đoạn có gạch dưới của văn bản phân định biên giới :
đường biên giới theo đường phân thủy,
tức đường sống núi, chạy qua các đỉnh cao nhất của rặng núi Dang Rek.
Nguyên văn vụ xử ngôi đền
Preah Vihear ngày 15 tháng 6 năm 1962 được ghi lại, những đoạn quan trọng, như
sau (nguồn : CIJ) :
a) Với 9 phiếu trên 3, Tòa
phán rằng ngôi đền Preah Vihear tọa lạc trên lãnh thổ thuộc chủ quyền của
Cambodge. Vì vậy Thái Lan phải cho rút đi các lực lượng quân sự hay cảnh sát,
hay những người canh gác đã được bố trí tại ngôi đền, hay ở các khu vực chung
quanh, thuộc lãnh thổ Cambodge.
b) Với 7 phiếu trên 5, Tòa
phán rằng Thái Lan phải trả lại cho Cambodge những bức tượng, các bia đá, những
bộ phận rời thuộc về ngôi đền, những kiểu mẫu bằng sa thạch và đồ gốm cổ, đã có
thể bị phía nhà chức trách Thái lấy ra khỏi đền, hay khu vực đền, trong lúc
ngôi đền bị Thái chiếm đóng từ năm 1954.
CIJ đã lý luận như sau :
Ngôi đền cổ Preah Vihear ở
trong tình trạng hoang phế, tọa lạc trên một
mỏm núi thuộc rặng Dangrek mà rặng núi này là biên
giới giữa hai nước Thái Lan và Cambodge. Mối tranh chấp có nguyên nhân từ việc
phân định biên giới bắt đầu từ năm 1904 đến năm 1908 giữa nước Pháp, đại diện Đông
Dương, và nước Xiêm. Việc phân định này chiếu theo công ước ngày 13 tháng 2 năm
1904. Công ước này đã thiết lập một cách tổng quát một đường biên giới, đường
này sẽ được xác định chính xác bởi một ủy ban phân định hỗn hợp Pháp-Thái.
Ở khu vực có
ngôi đền Preah Vihear, đường biên giới phải theo đường phân thủy. Theo thỏa
thuận từ buổi họp ngày 2 tháng 12 năm 1906, để xác định đường phân thủy, ủy ban
hỗn hợp phải tìm hiểu trên thực địa, qua một cuộc hành trình đi dọc theo đường
sống núi của rặng Dangrek. Một trắc địa viên người Pháp cùng tháp tùng để ghi
nhận địa hình toàn vùng phía đông của rặng núi. Điều không nghi ngờ là các vị
chủ tịch của các ủy ban Pháp và Xiêm đã làm cuộc hành trình này và những người
này cũng đã có thể thăm viếng ngôi đền. Vào các tháng giêng – tháng hai năm
1907, ủy ban Pháp đã báo cáo lên chính phủ của họ rằng đường biên giới đã hoàn
toàn được phân định. Như thế đường biên giới đã được xác định, cho dầu không
tìm thấy dấu vết nào về một quyết định, hay một ghi nhận bất kỳ liên quan rặng
núi Dangrek trong các biên bản được thành lập sau ngày 2 tháng 12 năm 1906. Lúc
ủy ban nhóm họp để kết thúc công trình phân giới, mọi người đã chỉ tập trung
vào kết luận về một hiệp ước khác, liên quan biên giới Pháp-Xiêm, tức hiệp ước
ngày 23 tháng 3 năm 1907.
Việc cuối cùng
của công trình phân định là việc làm bản đồ. Nhà nước Xiêm, vì không có phương
tiện lỷ thuật, đã yêu cầu nhân sự phía Pháp để thành lập các bản đồ vùng biên
giới. Các bản đồ đã được một ê kíp người Pháp hoàn tất vào xuân năm 1907, trong
đó có nhiều người thuộc ủy ban hỗn hợp. Ê kíp này đã thường xuyên quan hệ với
nhà nước Xiêm trong năm 1908. Một tấm bản đồ của ê kíp này (sau khi thiết lập)
đã giao cho nhà nước Xiêm, theo đó đền Preah Vihear nằm trên lãnh thổ Khmer.
Tấm bản đồ này cũng tài liệu I (hình 3 và hình 3a)
đính kèm hồ sơ, đã được phía Cambodge làm căn bản để
đòi hỏi chủ quyền ngôi đền. Ở điểm này phía Thái phản biện, vì bản đồ không do
ủy ban hỗn hợp thiết lập, do đó nó không có giá trị bắt buộc ; tấm bản đồ
vẽ đường biên giới không phù hợp với đường phân thủy, mà đáng lẽ đường (phân
thủy) này để dành ngôi đền về phía Thái ; tấm bản đồ này cũng chưa hề được
phía Thái công nhận, hoặc giả nếu có, là do phía Thái Lan tưởng rằng đường biên
giới đã vẽ đúng theo đường phân thủy.
Tấm bản đồ I kèm theo chưa bao giờ được công nhận bởi ủy
ban hỗn hợp. Ủy ban này đã ngừng hoạt động từ nhiều tháng trước khi tấm bản đồ
I được thiết lập. Người ta có thể hoài nghi việc tấm bản đồ này đã được những trắc
địa viên sử dụng làm căn bản trong khu vực núi Dangrek và Tòa cho rằng, nguyên
thủy, tấm bản đồ này không có tính bắt buộc. Nhưng mọi người đã thấy, trong hồ
sơ phân định, bộ bản đồ đã chuyển lên chính phủ Thái như là kết quả của công
trình phân định biên giới. Nhà cầm quyền Thái đã không có phản ứng nào (về các
tấm bản đồ này) từ thời kỳ đó, cũng không có phản ứng nào trong nhiều năm sau.
Người ta phải kết luận rằng nó đã được sự chấp nhận chính phủ Thái. Nếu phía
Thái đã chấp nhận tấm bản đồ đính kèm I mà không làm các cuộc nghiên cứu, thì
bây giờ họ không thể vịn vào lỗi lầm này để làm vô hiệu điều mà họ đã chấp
thuận.
Nhà nước Xiêm, sau đó là
Thái Lan, đã chưa bao giờ đặt vấn đề về bản đồ đính kèm I trước năm 1958, là
lúc hai bên Thái và Cambodge đã mở những cuộc thuơng thảo về chủ quyền ngôi
đền. Trong khi đó, vào các năm 1934-1934, một cuộc trắc địa đã cho thấy có sự
khác biệt giữa đường phân thủy trên thực tế và đồ tuyến biên giới trên bản đồ
I. Một số bản đồ khác đã được thiết lập, trong đó đặt ngôi đền thuộc lãnh thổ
Thái Lan. Nhưng phía Thái Lan vẫn tiếp tục sử dụng, thậm chí in ra, những tấm
bản đồ theo đó ngôi đền Preah Vihear thuộc về phía Cambodge. Mặt khác, trong
khoảng thời gian thuơng thuyết về hiệp ước Pháp-Xiêm 1925 và 1937, mà các hiệp
ước này khẳng định hiệu lực của đường biên giới, hoặc là vào năm 1947, trước ủy
ban hòa giải Pháp-Xiêm tại Washington, đáng lẽ phía Thái đã đặt lại vấn đề này,
thì họ đã không làm gì cả. Kết luận lại, như thế Thái Lan đã chấp nhận đường
biên giới như đã vẽ trong bản đồ I, cho dầu nó có phù hợp hay không phù hợp với
đường phân thủy của rặng Dangrek. Phía Thái Lan đã tuyên bố rằng, trong mọi
thời kỳ tranh chấp, vì đã chiếm hữu trên thực tế ngôi đền, do đó Thái không cần
phải đặt lại vấn đề này. Việc chiếm hữu và hành sử chủ quyền trên thực tế là
những bằng chứng rằng phía Thái Lan chưa bao giờ chấp nhận đường biên giới theo
như bản đồ I. Nhưng Tòa cho rằng, sẽ khó chấp thuận các hành động này, đến từ
các chính quyền địa phương, vì nó phủ nhận thái độ của chính quyền trung ương.
Hơn nữa, vào năm 1930, lúc hoàng thân Damrong (bộ trưởng bộ Nội Vụ Thái), lúc
thăm viếng ngôi đền, đã được sự tiếp đón chính thức của giới chức Pháp phụ
trách địa phương của Cambodge, dịp này Thái Lan đã không có thái độ nào.
Vì vậy Tòa cho rằng phía
Thái Lan đã thực sự nhìn nhận tấm bản đồ I. Cho dầu còn hiện hữu một hoài nghi
về việc này, nhưng bây giờ Thái Lan không thể phủ nhận cái mà họ đã ký nhận
trước đó, bởi vì Pháp và Cambodge đã tin cậy vào nó, cũng như phía Thái Lan đã
hưởng được những lợi ích mà công ước 1904 dành cho nước này trong vòng 50 năm.
Mặt khác, sự ký nhận này bao hàm luôn tấm bản đồ I, như những điều ước khác.
Vào thời kỳ đó hai bên có thỏa thuận về cách diễn đạt ý nghĩa của các điều ước,
theo đó đường biên giới vẽ trên bản đồ sẽ mạnh hơn ý nghĩa diễn tả trong công
ước. Trong khi đó, không có gì cho thấy rằng hai bên ký kết có sự chú ý đặc
biệt đến đường phân thủy, cho dầu bản thân đường này thể hiện một sự quan trọng
cực kỳ cho hai bên trong việc xác định đường biên giới. Tòa cho rằng ý nghĩa
của nó hôm nay vẫn không thể khác.
Vì vậy, Tòa cho rằng,
trong vùng tranh chấp, đường biên giới là đường xác định trên bản đồ I và sẽ
không cần thiết để tìm hiểu là đường biên giới này có phù hợp với đường phân
thủy hay không.
Vì những lý lẽ này Tòa
phán quyết thắng kiện cho bên Cambodge về chủ quyền ngôi đền Preah Vihear.
Hình 5 : Bản đồ khu
vực Preah Vihear được UNESCO ghi vào « di sản văn hóa của nhân
loại ». Vùng màu vàng thuộc về khu vực đền. Vùng màu xanh là vùng mở rộng.
Hình 6 : Bản đồ khu
vực ngôi đền Preah Vihear cho Thái Lan đưa lên UNESCO nhân đại hội tại Christchurch, Tân Tây Lan năm 2007. Theo đó Thái Lan cho
rằng vùng màu vàng thuộc về Thái Lan.
4/ Tranh chấp Burkina-Faso
– Mali :
Vụ tranh chấp
được đưa ra Tòa CIJ ngày 22-12-1986. Tòa áp dụng nguyên tắc « uti
possidetis » để phân xử tranh chấp biên giới giữa hai nước Burkina-Faso và
Mali. Ý nghĩa của nguyên tắc này là « vì (trước đây) anh đã sở hữu nó thì
(bây giờ) anh tiếp tục sở hữu nó ». Đây là nguyên tắc phổ biến được áp dụng
để xác định biên giới của các nước cựu thuộc địa sau khi dành được độc lập.
Về giá trị
các tấm bản đồ, ý kiến của Tòa nguyên văn tạm dịch như sau : « Trong
vấn đề phân định biên giới hay tranh chấp lãnh thổ quốc tế, các tấm bản đồ chỉ
đơn giản là các dữ kiện, với ít nhiều chính xác tùy theo trường hợp. Chúng
không bao giờ, chỉ qua chúng và bằng sự hiện hữu của chúng, mà tạo ra một danh
nghĩa chủ quyền lãnh thổ, tức là một tài liệu theo đó Công pháp quốc tế ban cho
một giá trị pháp lý tự tại nhằm để thiết lập những quyền hạn về lãnh thổ ».
Tức là bản đồ
chỉ có giá trị như những « dữ kiện » mà mức độ chính xác của nó cần
kiểm chứng lại. Bản đồ, tự nó, không thể tạo ra một « danh nghĩa »
pháp lý về chủ quyền lãnh thổ.
Kết quả của
Tòa, theo bản đồ sau đây, cho thấy Tòa không hề dựa lên bản đồ của bất kỳ bên
nào. Đường biên giới do Tòa phán quyền không hề trùng hợp với hai đường biên giới
do hai phía đề nghị. Quyết định của Tòa là dựa lên nguyên tắc « uti
possidetis », tức tôn trọng đường biên giới được thành lập do nhà nước bảo
hộ. Nhưng đường biên giới này đã không hoàn toàn phù hợp với thực địa. Nhiều địa
danh ghi trên các bản đồ phân định thì không đúng, hay không phù hợp với vị trí
trên thực tế. Mặt khác, tranh chấp hai bên là tranh chấp về các « nguồn nước »,
thực ra là các ao hồ được thành hình trong mùa mưa, đến mùa nắng đôi khi khô cạn.
Vị trí các ao hồ, do các nhân viên hành chánh thuộc địa ghi chú, do kỹ thuật hầu
hết đã ghi nhận sai. Do đó Tòa đã áp dụng nguyên tắc « effectivité »,
thay vì nguyên tắc phân chia theo lối « équité – công bằng ».
Tọa độ các điểm gốc cấu thành đường biên giới pháp lý trên bản đồ:
A: 1° 59' 01"
ouest et 14° 24' 40" nord
B : 1° 58' 49" ouest et 14° 28'
30" nord
C : 1° 54' 24" ouest et 14° 29'
20" nord
D : 1° 46' 38" ouest et 14° 28'
54"
E : 1° 40' 40" ouest et 14° 30'
03'' nord
F : 1° 19' 05" ouest et 14"
43' 45" nord
G : 1° 5' 34" ouest et 14"
47' 04" nord
H : 0° 43' 29" ouest et 15° 05'
00" nord
I : 0° 26' 35" ouest et 15° 05'
00" nord
J, K sẽ được xác định sau theo điều 4 của
bản kết ước thỏa thuận.
L : 0° 14'44" ouest et 15° 04'
42" nord
M : 0° 14' 39" est et 14° 54'
48" nord
5/ Tranh chấp Nam Dương (Indonésie)
và Mã Lai về các đảo Ligitan et Sipadan. phán quyết của Tòa ngày 7-12-2002. Tòa
cho rằng các đảo này thuộc về Mã Lai, theo nguyên tắc
« effectivité ». Nước này đã có một số hoạt động ở các đảo tranh chấp
mà không gặp sự phản đối nào của phía Indonésie. Không có bản đồ nào ảnh hưởng
lên quyết định của Tòa.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét