Ba Sàm
Blog Ba Sàm ra đời ngày 9-9-2007, tới hôm nay là tròn 5 năm.
Suy
tính từ 3 tháng trước phải viết gì đây và chợt nghĩ: tại sao người của
“cơ quan chức năng” quá biết về BS, trong khi đó các độc giả thân yêu
lại không rõ, thậm chí còn nghi ngại?
Nhiều suy
nghĩ cần được chia sẻ với những người đã góp công rất lớn, là độc giả và
các cộng sự, cộng tác viên, mà suốt 5 năm qua chưa một lần chính thức
thực hiện.
Vậy là quyết định sẽ phải tranh thủ con cà con kê, lấy chuyện mình để nói chuyện ngoài đời, mong bà con ráng đọc.
Do bài viết dài, nên để tiện cho người đọc, riêng 3 phần đầu được thu gọn, bấm vào chữ “Mời đọc tiếp” sẽ mở ra cả trang. Nhiều độc giả phải vượt tường lửa, không gửi phản hồi được tại trang chính, có thể gửi bên trang phụ basamnews.com, BS sẽ đăng lại sang tranh chính, hoặc gửi email: basamvietnam@gmail.com .
1- “Tự diễn biến”
Bao nhiêu năm sống giữa chốn “cung đình”, “nằm trong chăn”, hưởng sung sướng nhất những khi người dân khốn khổ nhất, ngộ ra bao điều phi lý, bao nghịch cảnh.
Gần 30 năm, từ thơ ấu cho tới khi bước vào đời, thành “người của đảng”,
BS được sống cùng gia đình trong một ngôi biệt thự của nhà nước giữa
phố Phan Đình Phùng, Hà Nội, nơi mấy năm nay ông thủ tướng đương nhiệm
đang ở.
Khi người dân miền Bắc hầu như không
biết đến hương vị bơ, sữa, thì mỗi sáng hắn tản bộ vài bước qua số 2
Hoàng Diệu, kế bên dinh thự của TBT Lê Duẩn, để mua những chai sữa tươi
còn nóng hổi, những thỏi bơ, pa-tê, ổ bánh mì thơm phức …
Hàng tuần, cứ tối thứ Tư và thứ Bảy, hắn cùng đám trẻ con ông cháu cha lại được tụ tập xem phim ở số 4 Nguyễn Cảnh Chân cùng người lớn, là các ông trong BCT, BCHTW như Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Nguyễn Duy Trinh, Phạm Hùng …
Kỷ
niệm duy nhất với bác Hồ là một tối Trung thu khi hắn lên 5. Trẻ con
mấy cơ quan đảng tập trung trong hội trường số 10 Nguyễn Cảnh Chân. Cả
lũ được chụp ảnh chung với bác, hắn được đứng bên. Sắp chụp thì bị mẹ
định lôi xuống, xin phép chải lại mớ tóc bù xù. Bác gạt đi, bảo: “Không cần đâu! Cứ để thế cho nó tự nhiên”. Vậy là ấn tượng chút ít về bác Hồ qua cái vụ đó. Bác mất, bố hắn tập trung cả nhà lại thông báo. Có mỗi ông anh thứ hai khóc.
Những
chuyện chính trị của người lớn, sách, tài liệu của giới lãnh đạo ít ai
được tiếp xúc, tuy còn nhỏ, nhưng tò mò, hắn cũng được nghe lóm, đọc lén
không ít. Ví như món “Tài liệu tham khảo đặc biệt” của TTXVN, mà lâu
nay đăng lại trên blog này, đã có từ khi hắn biết chữ. Vẫn thứ giấy đen
thui, vẫn màu mực, lối trình bày đó. Nội dung vẫn là đăng lại, dịch chọn
lọc từ đài, báo nước ngoài. Những năm 1960’, loại này có chữ “Mật-Không
phổ biến”, chỉ cấp bộ thứ trưởng trở lên được cung cấp, sau này thêm
cấp vụ, cục. Rồi khoảng cuối 1990’ thì bán tự do. Dù thế nào thì những
tài liệu này cũng đã giúp hắn “tự diễn biến” kha khá trong bao nhiêu năm “theo đảng”.
Những
thông tin ít nhiều về chế độ cộng sản kỳ quái của Mao cũng đến dần. Các
đàn anh đàn chị học trường thiếu sinh quân sơ tán ở Quế Lâm, Trung Quốc
về kể cho nghe những cảnh chém giết lẫn nhau giữa các phe phái. Ghê
rợn!
Còn bên kia đường, nơi nay là trụ sở Viện
Quản lý kinh tế TW và các dinh thự công vụ lần lượt cho các vị TBT, BCT
ở, là toàn bộ các cơ quan ngoại giao của Trung Quốc. Tối tối lại vọng
ra những bài sặc mùi sùng bái cá nhân Mao, như Đông phương hồng, Ra khơi nhờ tay lái vững.
Hình
như tất cả những thứ đó cứ tích tụ dần một thái độ căm ghét chế độ Mao
ngu muội, tàn ác, lờ mờ cảm giác về chính xã hội mà hắn đang sống. Một
hôm, thó trong tủ sách của bố cuốn Bàn về mâu thuẫn của Mao, dở ra, hắn nhổ vào mặt Mao một bãi nước bọt, cho bõ ghét.
Các chú, các cậu … thì kể về nội tình chóp bu, Mao, Lâm, Lưu mưu hãm hại nhau. Có lần họ còn cho xem một bức tranh to tổ bố “Mao Chủ tịch đến Diên An”,
được Trung Quốc gửi sang cho không hàng đống cùng “trước tác” của Mao,
còn huy hiệu Mao thì phát cả rổ. Thế nhưng người ta không ngờ đó là bức
tranh mang đầy ẩn ý, những hình đầu lâu xương chéo, người treo cổ rải
rác khắp nơi, nghe nói do cháu Lưu Thiếu Kỳ
vẽ. Dưới nắm tay của Mao siết chặt như chực đấm là một đám mây, soi kỹ
thì đúng là hình hai ông Marx, Lenin. Bọn sứ quán Trung Quốc đã phải vội
vã tìm mọi cách thu hồi.
Hình như cũng nhiễm
căn bệnh đa nghi và luôn lo sợ bị bôi xấu, nên hồi đó, người lớn cũng
thì thầm loan tin bức hình con chim Đrao trên vỏ thuốc lá cùng tên cũng
mang ẩn ý xấu. Cái mỏ nó hót, mà gương mặt (?) có vẻ ai oán, như vậy là
nó than vãn về chế độ miền Bắc ta rồi… Không rõ do cơ quan quản lý tưởng
tượng ra, hay là chính “bọn bất mãn” tự loan truyền nhận xét vậy để nói
xấu chế độ, chỉ thấy sau này không còn loại thuốc lá đó nữa.
“Chiến
tranh phá hoại”-tức những năm Mỹ ném bom miền Bắc đã đem BS rời chốn
“lầu son gác tía” để tới với cuộc sống bần hàn của người nông dân; điều
tưởng như sự thiệt thòi, mà sau này càng ngày hắn càng thấy may mắn, tự
hào, khi không được như các anh chị và bọn trẻ trong khu, người học
trường thiếu sinh quân, đứa thì “trốn” sơ tán bằng cách tạm lánh ra học
các trường ở ngoại thành Hà Nội.
Chăn trâu cắt cỏ, giã gạo, xay lúa, nuôi gà vịt… cũng biết mùi cả.
Có những điều kỳ lạ mà có lẽ không sách báo nào viết ra, nhưng để lại cho hắn những ấn tượng và dấu hỏi khó giải.
Khi
đó, để có một chiếc radio nghe tin tức là cực hiếm, còn nghe “đài địch”
thì đi tù như chơi. Vậy mà cha con bác chủ nhà vẫn nghe được đài địch
hàng đêm. Họ ráp vài linh kiện điện tử, căng một đoạn dây đồng ngang qua
mái nhà, xin hắn mấy viên pin cũ bỏ đi, ngâm vào nước muối để “tái
sinh”… Mớ hỗn độn đó được gọi là “Đài ga-len”. Đêm đêm, đôi khi thức
giấc, rất lạ khi nghe “Đây là Đài tiếng nói Gươm thiêng ái quốc”, có khi
là “Đài Sài Gòn”, mục “Nhịp cầu quê hương”, lời nhắn gửi cha, mẹ ở miền Bắc của các “cán binh cộng sản” đã tìm đến với “chánh nghĩa quốc gia”. Rõ là một thế giới khác!
1975.
Về quê ngoại, Huế. Quá nhiều điều làm BS kinh ngạc, từ đời sống “phồn
vinh giả tạo” được cán bộ, bộ đội, trong đó có cả hắn, cuống cuồng rinh
ra Bắc, cho tới thái độ chính trị của người dân. Câu cửa miệng chua
xót: “Miền Bắc nhận hàng, miền Nam nhận họ”. Hắn còn thay mặt gia đình nhận một khoản tiền các cậu, dì bán mảnh ruộng cuối cùng của ông ngoại chia cho.
Lạ
là khác với những gì hắn vẫn được tuyên truyền, sao trong đó người ta
toàn gọi Ngô Đình Diệm là “ông” với thái độ kính nể? Rồi cao điểm là
trong một cuộc cãi vã với thằng hàng xóm để bênh vực chế độ XHCN tươi
đẹp, hắn đã bị bẽ mặt. Không thể tin được câu chuyện lần đầu tiên nghe,
như tiếng sét ngang tai, về vụ thảm sát Mậu Thân 1968. Hỏi bà dì, hóa ra có thật. Sau này, tất cả những gì tương tự nghe được lúc đó càng rõ hơn.
1977.
Những gì nghe tuyên truyền và được học trên giảng đường về tôn giáo
dường như ngược với thứ hắn đọc được khi thâm nhập thực tế. Bất ngờ tới
độ hắn đã phải ghi vào nhật ký mà phân vân không thể tự giải thích nổi:
“Đọc hồ sơ học sinh chủng viện Vĩnh Bảo. Tài liệu sao dịch của giám mục
Tạo nói về tôn giáo, tuyên truyền phát triển Gia tô giáo. Mình thấy yêu
cầu phải giải thích – nói đúng hơn là tranh luận với những ý kiến trong
đó của hắn. Đại ý: khoa học không tách rời tôn giáo, khoa học phát
triển được là nhờ tôn giáo, ngược lại, tôn giáo cũng được giải thích
bằng cơ sở khoa học … Bài viết bác bỏ các ý kiến cho rằng tín ngưỡng là
kẻ thù của khoa học bằng cách dẫn chứng với 300 nhà khoa học danh tiếng
trên thế giới thì chỉ có 5 nhà khoa học là vô thần…”. Sau này ngày
càng ngộ ra tại sao những người được gọi là cộng sản có nhu cầu cao độ
phải hạn chế thông tin với dân chúng và với chính mình. Họ sợ… mất
người.
Khi
ra làm việc, trong nhiều năm liền hắn được tiếp xúc hàng ngày với các
cựu sĩ quan, quan chức trong chế độ Sài Gòn bị giam giữ để gọi là “học tập cải tạo” trong khắp các trại từ Nam chí Bắc, ăn dầm nằm dề
những Vĩnh Quang, Ba Sao, Trại 5 Thanh Hóa, Trại 2 Nghệ An, Bình Điền,
Z30D… đủ cả. Nhiều điều mà trong chiến tranh hắn nghe được qua đài báo,
sách vở về họ hoàn toàn trái ngược với những con người thật hắn thấy.
Không thể kể hết, mà chỉ tóm lược bằng hình ảnh trớ trêu: những cán bộ
chiến sĩ cảnh sát nghèo khó, ít học, quá thiếu hiểu biết lại đang “giáo
dục, cải tạo” cho nhiều kẻ thù cũ không những được học hành cẩn thận, mà
còn có nền tảng văn hóa, nhân cách đáng nể. Bao nhiêu con người với
những bộ óc tài ba đã bị phung phí. Thế nhưng tất cả họ phải chịu cùng
cảnh “ông tù, cháu tội”. Tiếc là các “ông” không dám, không biết
học hỏi từ các “cháu”. Riêng “ông” BS thì không sợ, tranh thủ mọi nơi
mọi lúc, tâm niệm học lóm được càng nhiều càng tốt.
Suốt 10 năm liền, trước và tiếp sau thời phát động “Đổi mới”,
do điều kiện công việc, hắn được tiếp xúc hàng ngày với nhiều thương
gia, trí thức người Việt ở nước ngoài trở về. Với một xã hội vẫn còn
khép kín thì đó quả là cả một “thế giới” khác, họ đã đem theo những
thông tin, lối sống, cách tư duy khác hẳn với một chế độ “bao cấp” cả về
kinh tế lẫn tư tưởng mà hắn đang sống.
Có lẽ ít
ai để ý và còn nhớ, những năm 80’ của thế kỷ trước, việc dùng đầu máy
video còn bị cấm. Một anh bạn khá giả của hắn cũng sắm được một cái,
hàng “nghĩa địa”, chỉ có vài cuốn phim ngoại quốc không dịch lời, xem đi
xem lại với nhau thấy sướng lắm rồi. Vậy mà bị tóm, tịch thu, phải
“chạy” bằng một chiếc xe máy thì mới qua được. Nhưng cơ quan BS không
những được Việt kiều cho đầu máy video, nhiều băng phim, mà còn “dám” tổ
chức chiếu. Cuối tuần, phát “vé nội bộ”, gia đình, bạn bè cán bộ lặng
lẽ tới coi, mắt trước mắt sau như đám cờ gian bạc bịp. Phim đôi
khi nhờ người dịch lời, còn thường thì… đùa với nhau là “xem phim câm
điếc”, vài người nghe được lõm bõm, vừa xem vừa tranh nhau đoán, càng
rôm rả.
Sách báo, tài liệu Việt kiều đem về cho,
từ thứ “phản động” liên quan đời sống người Việt bên ngoài, đại đa số
là “chống cộng”, cho tới những nghiên cứu về Việt Nam, các nước… thì vô
thiên ủng. Tất cả đều là những của hiếm thời đó.
Hắn
được “mở mắt” thêm nhiều nữa, đương nhiên, nói như các bác tuyên giáo
“kiên định lập trường”, hắn “tự diễn biến”. Rồi thêm một thứ “diễn
biến” khác là hắn đã liều bỏ không biết bao thời gian và tiền túi để lọ
mọ học tiếng Anh và vi tính từ lúc mọi người còn coi là thứ xa lạ.
Có lẽ vì vậy mà chỉ vài năm sau khi thành “người của đảng”, hắn đã muốn đảng phải đổi… màu.
2- Chỉnh Đảng
Mấy tháng trước, trong cuộc chuyện trò, thằng bạn đang là lãnh đạo một cơ quan pháp luật, cũng diện con ông cháu cha, bảo: “Chế độ này mà đổ thì tao với mày nó thịt đầu tiên!” Hắn cười: “Thì tao đang làm cái việc để cho nó không ‘đổ’, mà sẽ dần dần thay đổi, phát triển tốt đẹp hơn”.
Không
nhớ được bao nhiêu năm, BS hay tranh cãi chuyện chính trị với cha hắn.
Ông coi hắn như “thằng phản động”. Khi Gorbachev nổi lên, Liên Xô sụp
đổ, ông đã có những vần thơ căm giận, nguyền rủa kẻ mà không ít người
Việt, trong đó có hắn, coi như ân nhân.
Thế rồi
cũng không rõ từ khi nào, ông thay đổi trong lặng lẽ. BS bỏ nhà nước ra
kinh doanh, lờ đảng của ông đi, không thèm “sinh hoạt”, vậy mà ông không
nói gì. Khi hắn tâm sự muốn tự ứng cử Quốc hội, trên giường bệnh, ông
gọi điện mời Chủ tịch MTTQ Phạm Thế Duyệt tới để hỏi han, “gửi gắm”.
BS
hiểu về cha mình rất ít. Hồi đi học, hắn nghe lỏm người lớn bàn tán
chuyện trong một đại hội đảng, chỉ có ông Võ Nguyễn Giáp và cha hắn dám
lên tiếng phản đối trò “chia tổ” ra của ông Lê Đức Thọ khi thảo luận
những vấn đề gay cấn, “nhạy cảm”. Thời “Đổi mới”, cả nước khí thế hồ
hởi, thì ông có tiếng là người cảnh báo mạnh mẽ về tình trạng mà ông gọi
là “tham ô chính sách”, thứ ngày nay đã nổi lên là công cụ kiếm chác số
một của quan tham. Hắn học ông hai đức tính, liêm khiết và thẳng thắn,
nhưng sớm nhận ra và không theo con đường mà ông và các đồng chí của
mình đã chọn và hy sinh suốt đời.
Những năm cuối 1980, đầu 1990, trong các “hội Việt kiều
yêu nước”, tổ chức thân chính quyền miền Bắc từ trước 75’, tồn tại tới
khi đó, một làn sóng sôi sục, náo nức. Liên tiếp những sự kiện, từ Cuộc thảm sát tại Quảng trường Thiên An Môn 1989 cho tới Bức tường Berlin sụp đổ,
rồi cả hệ thống XHCN Đông Âu đổ theo, đã khiến rất nhiều trí thức, lãnh
đạo các hội muốn Việt Nam phải thay đổi nhanh tương tự, nhất là không
khí “Đổi mới” khi đó cũng ít nhiều thuận lợi. Một số hội gửi tâm thư cho
lãnh đạo đảng, quốc hội trong nước đòi phải “đa nguyên đa đảng”.
BS
đã có những cuộc tranh cãi thâu đêm với vài người trong số họ quanh chủ
đề này. Đại để quan điểm của hắn là tán thành Việt Nam phải thay đổi
theo xu hướng đó, nhưng không thể nhanh, mạnh như Đông Âu được, vì bản
chất chế độ chính trị, dân trí, văn hóa ở VN quá khác.
Sau
những kiến nghị không thành, cùng với diễn biến trong nước ngày càng có
xu hướng khép lại về tư tưởng, các hội “Việt kiều yêu nước” dần dần
phân rã. Trong nước thì giới trí thức, văn nghệ hụt hẫng, không ít người
gặp phiền toái vì “tự cởi trói” hăng quá.
Bức bối trước hai luồng diễn biến chính trị và quan điểm trái ngược, hắn đã lặng lẽ viết một bài báo với tựa đề: “Vì vận mệnh Dân tộc, hãy hy sinh quyền lợi của đảng”,
đăng trên tạp chí Đất Việt của Hội người Việt Nam ở Canada. Đại để
trong đó đánh giá thực trạng Đảng CSVN mặc dù lấy được lòng tin ghê gớm
trong dân chúng qua mấy cuộc chiến, nhưng đã trở nên không còn thích hợp
nhiều lẽ, nó phải tự cải tổ, giảm bớt dần quyền lực, trao vào tay nhân
dân, để dần dần tiến tới một nền chính trị đa nguyên.
Cho đến lúc này, hắn vẫn không thay đổi quan điểm trên. Những bài báo khác sau này liên quan tới đảng CSVN như Nếu tôi là lãnh đạo – Sửa ngay hai thói xấu (1989), Đảng viên hay Ông chủ (2006), Tự đề cử, 31 năm – Vết thương chưa lành, Cầu kiều (2007), Cải cách hành chính trước hết từ bộ máy của Đảng (2008), v.v.. đều liền mạch như vậy, kể cả nhiều tiểu phẩm tếu đả kích những thói hư tật xấu của giới lãnh đạo cũng mang mục đích tương tự.
3- Dân trí
Khi gia nhập đảng CSVN, nguyện đi theo lý tưởng cộng sản, thế rồi hắn đã tìm thấy một lý tưởng khác, như viết trong Tuyên ngôn “Phá vòng nô lệ”.
Sau 1975, có những thứ mà Sài Gòn, miền Nam làm cho hắn rất lạ và không thể quên.
Một
đêm, chạy xe máy về nhà (ông cậu), tới ngã tư đèn đỏ, ngó hai bên đường
vắng hoe, hắn rồ ga tính vọt thẳng. Bất ngờ nghe bên tai tiếng thắng xe
cái rẹc, liếc qua thấy ông lão với chiếc xích lô trống không. Quê quá,
phải dừng theo! Nhiều năm sau, ở Hà Nội, những ngã tư đông đúc như Tràng
Tiền - Hàng Bài, ngoài một chú cảnh sát đứng bục, thường phải thêm có 4
chú cầm gậy chặn bốn phía, lùa, đuổi mà cũng không xuể.
Lên
xe bus, xe đò trong Nam luôn cho hắn những cảm giác thích thú để quan
sát. Đủ các hạng người, mà sao không chen lấn, cãi vã. Khách nhường ghế
cho nhau, thăm hỏi, chỉ đường tận tình (những thứ mà cho đến hôm nay,
trên xe bus Hà Nội, người ta phải ghi lên tấm biển to đùng, thành “Nội
quy”). Lơ xe lăng xăng xách, buộc chằng đồ cẩn thận cho khách, nhảy lên
mui, đeo bên thành xe la nhắc người dưới đường cẩn thận.
Người
ta làm việc như điên, nhưng tiêu xài cũng dữ. Chiều chiều là quán nhậu
tấp nập, đàn ông lai rai vài xị đế tới tối. Về nhà, đánh một giấc, sớm
mai lại lao vào làm quần quật. Nhậu ở nhà thì vợ con phải cung cúc hết
mình phục vụ, như chuyện đương nhiên. Từ “nhậu” người Bắc học được từ
đây, cùng với những ngôn từ trong Nam được cho là “chịu chơi”, “hiện
đại”, như “Tiệm” (hớt tóc, phở), “Nhà” (may, thuốc)…
Người
Bắc nhịn ăn để mặc, người Nam nhịn mặc để ăn. Hắn cho đây là phát hiện
của riêng mình. Có lẽ họ bù trừ cho nhau thì đất nước này sẽ tốt đẹp
hơn, đủ thứ, từ nết ăn ở cho tới tính tình.
Không
như Hà Nội, chung cư Sài Gòn khi đó không có chuyện cơi nới, lấn chiếm
hành lang, chỗ công cộng. Người ta quan tâm, giúp đỡ nhau rất tự nhiên,
nhưng lại ít xoi mói đời tư, ganh ăn tức ở như người Bắc.
1979,
về miền Tây. Nhiều tháng ăn ở cùng nông dân, thấy rõ con người ở đây
ngoài nét hiện đại bề nổi bằng những vật dụng gia đình, thì thiếu hẳn
một nền tảng văn hóa mà ngoài Bắc có lợi thế của xứ sở đã an cư lạc
nghiệp rất lâu đời.
Sống cùng một gia đình nông dân khá giả ven sông Hậu, hắn vô cùng ngỡ ngàng và lúng túng về điều kiện vệ sinh. Ao cá vồ
với những chiếc “cầu tõm” đơn sơ là điển hình cho thứ “nhất cử lưỡng
tiện” của tiêu hóa và bài tiết. Những gia đình không có ao thì kênh
rạch, sông vừa như “giếng khơi”, vừa nhà vệ sinh. Vậy mà họ vẫn lấy nước
kênh, sông về bể, lóng phèn và uống “sống”. Có bữa, chiến sự trên biên
giới Việt Miên dữ dội, sáng ra, chỉ ít phút mà ngó thấy cỡ dăm xác người
như trâu trương trôi lờ đờ dọc sông. Vậy mà bà chủ nhà vẫn xách nước
lên, đổ vào chiếc lu ngoài cửa, ai đi qua cũng múc uống.
Người
dân sợ sệt vô cùng những gì liên quan tới nhà nước. Một bữa, trong bàn
nhậu, thấy anh hàng xóm bị một tay thanh niên mặt non choẹt hoạnh họe
chửi bới mà cứ nín thinh, hỏi sao vậy, anh thì thầm: “Nó là… đoàn viên đấy!”
Bàn
chuyện “dân trí” đương nhiên bao hàm cả với những người trong cơ quan
công quyền, giờ hay được gọi là “quan trí”. Câu hỏi bao nhiêu năm vẫn đi
theo hắn: tại sao cán bộ, nhất là ở những cơ quan pháp luật, với người
dân luôn có ngăn cách rất lớn?
Những gì hắn kể ở phần đầu đã trả lời phần nào câu hỏi. Và còn rất nhiều nữa.
Những
tờ báo hàng ngày thường trực trong công sở là tờ Nhân dân, Hà Nội Mới,
hình như vẫn chưa đủ, một thời còn có quy định giờ đọc báo tập thể 15
phút. Thế mà nhiều đồng nghiệp, trong giờ làm việc chẳng biết làm gì,
ngáp ngắn ngáp dài, ôm tờ Nhân dân xoay ngược xoay xuôi đến nhàu nát,
nhưng cũng chẳng dám chuồn ra ngoài “chạy” việc riêng, vì sợ bị kiểm
điểm.
Nhưng kể cả nhiều vị, cũng đi đây đi đó,
mà sao vẫn… “nguyên bản”. Như ông sếp của hắn, có tận 7 năm “lăn lộn” ở
New York, vậy mà vẫn rất “chân quê”, quần đùi vắt lưng ghế, dép lê loẹt
quẹt, khạc nhổ tứ tung…
Hắn vẫn tự thấy mình may
mắn, khi được quen, được học hỏi những người có hiểu biết, môi trường
sống, làm việc khác hẳn. Những năm tháng còn là người nhà nước, thì có
nghệ sĩ Văn Vượng, đạo diễn Trần Văn Thủy, sau này ra thành người “tự
do” có TS Lê Đăng Doanh, TS Nguyễn Quang A… là những bậc đàn anh giúp
hắn mở mắt ra thêm ít nhiều. Hắn vẫn hằng ao ước, giá như những người
trong bộ máy đảng, chính quyền, các vị lãnh đạo có được những mối quan
hệ gần gũi, bình đẳng với giới trí thức, văn nghệ, thì đất nước này,
người dân VN ta sẽ đỡ khổ hơn bao nhiêu.
Học
không phải chỉ “tri thức”, mà cả lối sống, không chỉ ở những người “lắm
chữ”, có danh vị, mà cả từ những con người bình thường, thậm chí bị coi
như tội phạm.
Nhớ mãi một chuỵên, khi BS mới hơn
10 tuổi, ở nhà nông dân nơi sơ tán. Trong bữa ăn, hắn gặm qua quít một
miếng xương, rồi liệng ra mâm. Cụ chủ nhà gắp lên, gặm nốt.
Khi
tiếp xúc với các sĩ quan, công chức chế độ cũ “cải tạo”, hắn biết thêm
nhiều điều lạ, đáng quý ở họ. Gần gũi với ông Ng., trại Z30D, Hàm Tân,
một cựu thiếu úy cảnh sát đặc biệt, nghe kể nhiều chuyện đời, mới biết
ông có “nghề tay trái”, là đệm đàn guitar điện cho các quán cà phê.
Không như người cán bộ cộng sản, họ hoạt động văn hóa xã hội mà kiếm
thêm những đồng tiền chính đáng, tự nhiên và thấy tự hào. Đến khoảng
giữa những năm 80’, khi xem bộ phim “Con thú tật nguyền” của Hồ Quang Minh, càng thấy những hiểu biết, nhìn nhận của mình về “đối phương” một thời là đúng.
Có
điều, chính những người được tiếp xúc sớm, nhiều hơn với xã hội dân
chủ, văn minh phương Tây, trong đó có giới trí thức, văn nghệ hai miền,
đã xuất ngoại học, làm việc, hay định cư ở nước ngoài, hàng chục năm
qua, cũng không tránh khỏi những cái tật rất Việt Nam của mình, từ lối
tư duy, cho tới tính cách. Hình như họ đáng phải được “nâng cao dân trí”
hơn cả người dân, vì là kẻ dẫn dắt dân chúng đưa xã hội đi tới, đấu
tranh, cải hóa giới lãnh đạo chính trị. Những nhận xét này hắn đã nghiền
ngẫm, hì hụi trong 3 tháng một bài viết công phu: Quyền lực và tri thức.
Và
một thành phần xã hội đóng góp quan trọng cho mở mang dân trí, nhưng
lại được ví như thứ “Quyền lực thứ Tư”, đáng lẽ phải lưu tâm trong bài
viết này hơn cả, là làng báo VN. Nhờ đặc thù công việc, hắn may mắn tiếp
xúc nhiều với họ, dễ phải tới trăm người trong mấy chục năm qua. Thế
rồi như nhân duyên, blog và báo cứ đan xen, gắn kết trong công việc, suy
nghĩ của hắn hàng ngày.
4- Blog-báo. Để tiếp nối những gì đã đề cập trong bài Ba Sàm 4 tuổi, xin được trao đổi nhiều hơn những chuyện “bếp núc” tỉ mẩn hàng ngày.
Giữa giai đoạn “bùng nổ” của loại blog Yahoo!360º, như một bài lược sử blog Việt Nam mới đây viết, hắn lọ mọ mở blog và tìm hiểu.
Các
hệ thống blog tựa như những khu đô thị, nhà cung cấp xây lên sẵn, cho
dân vào ở miễn phí. Ai muốn cơi nới, có thêm dịch vụ… thì bỏ tiền mua.
Đại đa số không cầu kỳ, ở miễn phí là sướng quá rồi. Trên thế giới mạng
có rất nhiều “khu đô thị” như vậy, thế nhưng cư dân mạng VN lại có đặc
điểm khác hẳn phần còn lại của thế giới, họ khoái nhất Yahoo!360º. Có lẽ
nó là thứ vừa thích hợp cho dân nghèo, mà lại thuận lợi cho giao du hơn
cả (Facebook sau này đã phát triển tính năng tương tự). Đặc điểm nổi
trội của loại này là mỗi người được phép có trong danh sách của mình tới
300 người bạn, ai có bài mới, có “câu phát ngôn” mới là hiện lên ngay.
Độc giả còn có thể gửi nhắn tin cho riêng chủ blog mà vẫn không bị lộ
địa chỉ, danh tính. Mối dây liên hệ giữa họ với nhau được tăng lên theo
cấp số nhân. Một lời kêu gọi, như với cuộc biểu tình chống Trung Quốc
cuối 2007 chẳng hạn, là tức khắc hàng vạn người biết. Và chính quyền đã
lo sợ điều đó. Khi tuyên bố đóng cửa Yahoo!360º để thay vào là
Yahoo!Plus Việt hóa, hãng này viện cớ kỹ thuật, nhưng đằng sau có lẽ là
trò thỏa hiệp với những chính thể độc tài mà Yahoo nhiều năm nay vẫn hay
bị tai tiếng.
Sau
khi đăng những bài báo của mình, BS nảy ra ý định tự dịch các bài viết
về VN trên báo chí ngoại quốc, thứ khi đó còn rất ít trang mạng quan tâm
dịch thường xuyên, còn báo nhà nước thì chỉ… “lược dịch”. Trình độ có
hạn, nhưng được độc giả khắp nơi thẳng thắn góp ý, nên bài dịch ngày
càng đỡ hơn. Mục tiêu mỗi ngày dịch một bài, nhiều bài dịch rồi đăng
ngay chỉ sau vài giờ.
Người góp công nhiều nhất
cho bài dịch và rồi cũng là cộng sự tích cực gầy dựng nên blog BS trong
thời gian đầu là blogger Trần Hoàng. Tiếp đến, 2-3 năm nay, là BTV, các
CTV, blogger, người dịch, cũng chính là độc giả ở khắp nơi đã lặng lẽ
góp phần rất lớn làm cho nội dung của trang súc tích, sinh động thêm
không ngừng. Đặc biệt có vai trò của BTV, là “tiếng nói phản biện” chống
lại chế độ “độc đảng”, “độc quyền cai trị” trong nội bộ blog BS.
Riêng
với BS, tại sao có thể để hết công sức, thời gian vào ngôi nhà chung
này được? Bởi vì thật may mắn, hắn đã có một hậu phương vững chắc, có
bạn quản thủ dùm công ty, có người thân yêu lo toan cho đủ thứ… Cơ quan
chức năng đỡ phải băn khoăn có “thế lực thù địch” chu cấp tiền bạc. Cuộc
đời hắn như sang trang mới nữa cũng là từ đó.
Thời
gian đầu, nhiều độc giả “chê” blog BS khô khan, toàn chuyện chính trị,
sợ là sẽ khó hấp dẫn. Quả tình khi đó, như bài viết về lịch sử blog VN
đề cập, nhiều blog “hot” là do đưa nhiều tin, hình ảnh sex, kinh dị,
chuyện giật gân. Cho tới hôm nay, tình thế rõ ràng là đã đảo ngược. Dân
mình thực ra rất quan tâm chính trị, chỉ phải cái đảng, nhà nước lại
không muốn vậy, làm đủ cách để dân chán chính trị, nói đúng hơn là nghĩ,
bàn chuyện chính trị theo “định hướng”, trong đó cách quan trọng nhất
là thông qua báo đài nhà nước.
Thấy các trang
web của 4 đài phương Tây RFI, BBC, VOA, RFA bị tường lửa, ban đầu, BS đã
điểm thêm các tin bài trên các trang này giúp cho độc giả. Tiếp đến,
thấy nhiều bài trên báo nhà nước cũng khá tốt, hắn thử bổ sung, thế là
vấp phải phản ứng khá tiêu cực của bà con, thậm chí còn có nghi ngờ hắn
làm “tuyên vận”…
Khi chuyển sang hệ thống
WordPress này, chức năng lên danh sách bạn bè kiểu Yahoo!360 không có,
nhưng thay vào đó là nó cho phép tạo ra danh mục và đường dẫn (link)
nhiều “bất tận” tới các blog, web, báo chí. Vậy là BS lần mò tìm những
blog/web hay, kế đến là các báo trong, ngoài nước, đưa vào danh mục của
mình với hy vọng le lói ban đầu là tạo nên một nơi hội tụ thật nhiều
thông tin, tiện tìm kiếm để phục vụ độc giả. Cuối cùng, khi mọi người đã
tập hợp đông đủ như một cái chợ thông tin họp giữa nhà ga trung tâm, là
diễn ra nhu cầu, hoạt động trao đổi, bàn luận đủ kiểu. Những bài viết,
sự kiện, những cơ quan, tổ chức… có điều gì hay/dở, những con người
tốt/xấu đều có thể được hội tụ về đây, phơi bày, cọ sát, so sánh, được
đông đảo cư dân mạng khắp trong ngoài nước tức khắc nhận biết. Kẻ xấu bị
vạch mặt phải biết sợ, người tốt được động viên, gắn bó.
Xin đi vào chuyện “bếp núc”:
- Độc giả
có một thành phần quan trọng là các cán bộ đảng viên, những người đang
hoặc đã từng tham gia hệ thống chính trị của chế độ, ít nhiều gắn bó,
còn “kiên định lập trường”, họ rất cần được thay đổi dần nhận thức, được
cung cấp nhiều hơn thông tin đa chiều và trung thực. Tuy nhiên, làm sao
cho họ “tiêu hóa” dần được, tránh bị sốc, “bội thực”, rồi quay lưng là
điều không dễ. Mong những bà con có phản ứng nóng nảy quá, lên án theo
kiểu “vơ đũa cả nắm” mọi cán bộ, đảng viên, hoặc muốn nội dung tin, bài phải mạnh hơn… có thể cảm thông điều này.
- Phản hồi của độc giả có ý nghĩa đặc biệt. Có người đã bảo, vào đây chỉ thích đọc còm
của độc giả. Những còm sĩ tiếng tăm nhưng “ẩn danh” như Nice Cowboy, Hồ
Thơm, Bác Ba Phi, Bình Loạn Viên, Đông Hải Long Vương, Hoang Lan Moc
Chau, Hai Lúa, Qx, Xman, D.Nhật Lệ, Bun Thoong, Mongun, Long A, Trần
Quốc, Mèo con, chipheo@, hahien, TRỰC NGÔN_ABS, Tg…, “nổi danh” như KTS
Trần Thanh Vân, Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo, GS Huệ Chi, KS Lê Quốc Trinh,
Nhà giáo Hà Văn Thịnh, Nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc… Từ “hội giật tem”
rất đáng yêu mà không một trang mạng nào có được, những bài thơ xuất
thần độc đáo thay cho lời bình luận khô khan, những nhận xét sâu sắc
đáng được bổ sung vào bản tin hoặc đăng thành bài, kể cả những câu cảm
thán ngắn ngủi nhưng vẫn đầy ý nghĩa… cho tới cả tiếng chửi tục vì không
thể kìm nén nỗi căm giận. Ngoài ra, tuy chiếm số lượng rất ít, nội dung
thường sơ sài, nhưng những phản hồi trái chiều, trái tai với tuyệt đại
đa số độc giả cũng vẫn được quan tâm, khích lệ. Tất cả làm nên một bức
tranh sinh động, thiếu đi là mất một phần lớn sức hấp dẫn. Phần nào vì
vậy mà việc giữ hay cắt bớt, bỏ hẳn một phản hồi quá nặng là rất khó
khăn, thường người biên tập tạm cho ẩn, sau đó mới quyết định chính
thức. Do nhân lực, thời gian có hạn, nên không trả lời được mấy các phản
hồi của độc giả, trong khi nhiều có ý kiến rất thú vị. Riêng thư từ gửi
tới, BS hầu như hồi đáp đầy đủ.
- Điểm tin
là công việc nặng nhọc nhất mà cũng quan trọng nhất. Cố bao quát cho
hết những vấn đề thời sự mọi mặt, trên cả báo nhà nước, nước ngoài và
mạng tự do; sắp xếp hợp lý, nối kết những tin liên quan, tìm thông tin
đã được đề cập từ trước đó, rồi đọc lướt những tin bài quan trọng để
phát hiện ra câu, ý hay, trích ra, bình luận v.v. kể cả làm sao để hạn
chế trùng lắp, trong khi các báo cũng hay sử dụng tin bài của nhau.
Nhiều độc giả, các blogger, thậm chí cả các nhà báo cũng đã góp phần
phát hiện, giới thiệu tin, bài quan trọng, vừa sinh động thêm, tính cộng
đồng tăng lên, lại đỡ nhiều công sức cho các thành viên của trang. Mục
điểm tin này cũng giúp ích không nhỏ cho các báo, nhà báo, giới blogger
có điều kiện hiểu mình, hiểu người, nâng dần năng lực, ý thức trong công
việc.
- Bài viết được gửi
tới khá nhiều, nhưng do nhân sự biên tập có hạn, lại muốn đảm bảo chất
lượng bài vở khi đăng lên, nên nhiều khi phải từ chối. Thay vào đó, BS
cố phát hiện những bài đáng quan tâm trên báo, blog khác để đăng lại.
- Bài đăng lại
có khi bị độc giả phê phán dữ dội; có người thắc mắc tại sao một bài tệ
hại mà lại đưa lên. Lý do: + Tự do thông tin, có vậy mới đầy đủ bức
tranh sáng, tối của truyền thông nước nhà, kể cả cho thấy sự kém cỏi của
vài “thợ viết” bảo vệ quan điểm “chính thống”. + Nếu không đăng lại,
làm sao biết người dân suy nghĩ ra sao về thứ sản phẩm tồi đó, khi mà ở
trang báo “chính thống” thì không có lấy một phản hồi, nhưng đăng lại
trên BS thì hàng trăm ý kiến phê phán. Nó sẽ là sức ép lên chính người
viết, tòa báo có bài đó, sớm muộn, ít nhiều họ cũng sẽ phải thay đổi.
Một dạng đăng lại đặc biệt là các bản “gốc” khi bản “biên tập” được đăng
trên báo nhà nước đã không làm vừa lòng tác giả, do bị cắt xén quá mức.
Một trong những ích lợi của công việc này là tạo nên sức ép nhất định
cho tòa báo, với cơ quan chức năng, không thể tiếp tục mãi lối quản lý
cũ kỹ.
- Bài dịch
hầu như đều có người khác hiệu đính, thậm chí nhiều bài còn được chính
tác giả-giỏi cả tiếng Việt xem lại lần cuối. Tuy nhiên, rất nhiều độc
giả của BS thành thạo ngoại ngữ cũng đã góp phần chỉnh sửa, bàn luận,
mong là cách này sẽ được quan tâm hơn nữa.
- Danh mục
blog, web, báo được cập nhật, điều chỉnh thường xuyên. Nhưng “lực bất
tòng tâm”, nên sẽ tốt hơn nếu như bà con giới thiệu thêm những blog, web
đáng được đưa vào nhưng lại bỏ sót. Ngoài ra, do có khi trục trặc, nhầm
lẫn, có blog vô tình bị mất khỏi danh mục. Ngược lại, có blog nổi
tiếng, nhưng không đưa vào danh mục, hoặc đã có nhưng bị loại ra, đều có
chung một lý do… “nhạy cảm”, không thuộc dạng này thì cũng ở dạng khác
mà độc giả có thể cảm nhận qua những thông tin, běnh luận hŕng ngŕy.
- Bình luận
của BS và cộng sự là thứ có thể đáp ứng tức thì, ngắn gọn với một bài
viết hay những vấn đề xảy ra hàng ngày mà không phải chờ đợi, phải cậy
đến một bài báo sẽ có ở đâu đó. Những trao đổi, gợi ý của độc giả qua
phản hồi, email gửi tới cũng bổ sung thêm kha khá. Nhưng… để tránh lối “múa gậy vườn hoang”, rất cần có thêm những ý kiến độc giả tranh cãi với chủ nhà.
- Tin tức
ngoài hệ thống báo chí, văn bản nhà nước, gọi là tin “vỉa hè”, ở xứ sở
không báo tư nhân, báo nhà nước được quản chặt ghê gớm, là rất có ý
nghĩa. Trong số này, ngoài những gì BS và cộng sự trực tiếp thu thập
được, thông tin, hình ảnh do các CTV, nhà báo thân thiết gửi tới, thì
nguồn tin do độc giả cung cấp vẫn còn ít.
Đặc
biệt xin cám ơn các cộng tác viên “chiến trường”, lăn lộn cùng người
biểu tình yêu nước, bà con nông dân mất đất, từ Tiên Lãng, Văn Giang…
tới Vụ Bản, không quản vất vả, hiểm nguy. Có người còn bị xã hội đen tới
tận nhà đe dọa nhiều ngày.
.Có độc giả cho là
tới khi nào nền báo chí của VN được tự do thực sự, thì sẽ không còn BS
nữa. Nghĩ vậy thì chỉ mới nhìn thấy một nửa tiện ích ở đây. BS đã từng
mơ sẽ có ngày gắn kết blog của mình vào một hệ điều hành dùng riêng cho
các “máy đọc báo” kiểu iPAD và iPhone. Hắn cũng tin là cách làm hiện
nay sẽ “bất tử”, nên rủi mình có ham chơi mà lơ là bỏ bê công việc, cũng
vẫn sẽ có các cộng sự ở khắp nơi cùng độc giả tiếp tục công việc hàng
ngày này.
Xin cám ơn các quý độc giả đã kiên
nhẫn đọc hết bài viết dài lê thê này. Vậy mà vẫn còn rất nhiều điều cần
trao đổi, đành chuyển tới mục Phản hồi.
B.S.
Nguồn: anhbasam.wordpress.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét