Bà Clinton quay trở lại châu Á lần thứ ba trong vòng 4 tháng
Bà Clinton quay trở lại châu Á lần thứ ba trong vòng 4 tháng
Tạp Chí Đảng Tau là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng The Xo Vo. Hoàn toàn mở, cho các bạn đóng góp ý kiến, và trong tất cả mọi lĩnh vực. Sẽ hoàn toàn công khai minh bạch, không có vùng cấm trong đây: Ai cũng có thể phê phán Bộ Cả Tin, nếu như các ủy viên BCT có khuyết điểm, hoặc làm sai, làm bậy! Tổng Biên Tập: Té Giếng
Paulo Thành Nguyễn
Sau “hiệp định Geneve” hàng triệu người, đa số là người Công giáo, rời khỏi miền Bắc VN năm 1954 theo chương trình Passage to Freedom (Con đường đến Tự Do). Tính đến giữa năm 1954 và 1956, trên 1 triệu người đã di cư từ Bắc vào Nam, trong đó có khoảng 800.000 người Công giáo, tức khoảng 2/3 số người Công giáo ở miền Bắc đã bỏ vào miền Nam
Theo tuần báo Time, những người di cư vào miền Nam, đặc biệt những người Công giáo Việt Nam, cho rằng họ đã bị đàn áp tôn giáo dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhiều người thật sự ra đi vì lý do kinh tế và chính trị: họ là những người làm việc cho Pháp, hay giới tư sản không có cảm tình với chính phủ Cộng sản. Một số người là nạn nhân của cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam, bị lấy mất tài sản nên phải bỏ ra đi.
Biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc chiến hai miền Bắc-Nam chấm dứt. Chế độ Việt Nam Cộng hòa thua trận với hậu quả hai đợt di dân lớn từ Việt Nam đến Hoa Kỳ và các nước Tây phương.
Năm 1977 bắt đầu đợt thứ hai khi phong trào vượt biển tỵ nạn kéo dài cho đến giữa thập niên 1980.
Tiếp đến vào năm 1990 các chương trình đoàn tụ đón tù cải tạo, con lai, tái định cư cho đến nay.
Tổng cộng các đợt di dân lịch sử này tính riêng tại Mỹ hiện là 1.223.736 người. (theo Wikimedia)
Nguyên nhân dẫn đến sự ra đi lịch sử này bắt đầu từ việc người dân miền nam lo sợ chính quyền Cộng sản trả thù sau ngày 30/4/1975. Một phần vì đời sống kinh tế khó khăn và phần lớn bởi chính sách hà khắc của chính phủ lúc bấy giờ đã đẩy số lượng lớn con người rời bỏ quê hương.
Nhưng đến hôm nay, sự ra đi đó vẫn tiếp diễn…
Theo thống kê của Cục Đào tạo với nước ngoài (Bộ GD&ĐT), nước ta hiện có trên 100.000 du học sinh (DHS) theo học tại 49 quốc gia, vùng lãnh thổ. Nhiều nhất là Úc (khoảng 25.000 người). Xếp thứ nhì là Mỹ (14.888 người), kế tiếp là Trung Quốc (12.500), Singapore (7.000), Anh (6.000), Pháp (5.540), Nga (5.000), Nhật Bản (3.500). Trong đó khoảng 90% đi học bằng kinh phí tự túc.
Đa số DHS sau khi tốt nghiệp đều tìm cách định cư tại nước sở tại vì điều kiện làm việc và môi trường sống ở nước ngoài. Nhiều DHS không muốn về Việt Nam vì không có cơ hội phát triển và xã hội ẩn chứa quá nhiều rủi ro về các vấn nạn xã hội, một phần vì thích môi trường sống tự do ở các nước Tư bản.
Nếu vượt biên chính thức ngày trước bằng cách “mua bãi” với 6 lượng vàng thì du học ngày nay cần chứng minh tài chính và khả năng chi trả học phí, ăn ở trung bình khoảng 30,000 USD/ năm.
Nếu sự ra đi ngày trước vì lo sợ trả thù, vì cái đói của thể xác thì sự ra đi của một bộ phận thế hệ hôm nay là sự chạy trốn cái nghèo đói về kiến thức và vươn đến sự tự do trong tư tưởng, tự do sáng tạo.
Việc chấp nhận cho con cái du học đồng nghĩa với việc chấp nhận xa lìa con cái như cảnh ly tán ngày trước của rất nhiều gia đình. Chỉ khác là điều kiện liên lạc và phương tiện đi lại hôm nay thuận tiện hơn, nhưng rõ ràng sự chia ly là không ai muốn và càng không muốn làm một người tha hương...
Tuy sự so sánh trên có phần khập khểnh nhưng nhìn chung sự ra đi cũng bởi hy vọng tìm một nguồn kiến thức tốt hơn, môi trường làm việc tốt hơn, môi trường sống thông thoáng hơn hay đơn giản chỉ để tự do hơn...
Một vị giáo người Nga trong một giai thoại về cuộc triễn lãm nghệ thuật “con cá” nói :
"Con cá là một sinh vật. Là một sinh vật, nó chỉ có thể sống trong môi trường nước, chứ không thể sống bằng khái niệm "nước". Người Nga chúng ta cũng như vậy. Là những con người, chúng ta chỉ có thể sống được trong một môi trường với các mối quan hệ xã hội và tự nhiên cụ thể, chứ không thể sống được bằng khái niệm "chủ nghĩa xã hội". (FB Nguyên Hưng)
Người Việt Nam chúng ta cũng như con cá đó!
Chúng ta không thể "hòa hợp dân tộc" bằng khái niệm khi luôn tồn tại bóng ma “thế lực thù địch”.
Chúng ta không thể phát triển khả năng sáng tạo trong khái niệm tư duy một chiều.
Chúng ta không thể phát triển nhân trí khi bỏ mặc tình hình đất nước cho khái niệm " Đảng và nhà nước lo".
Chúng ta không thể phát triển đạo đức khi chỉ dựa theo khái niệm "tấm gương đạo đức" của người khác.
Và rõ ràng chúng ta đã không thể sống đúng nghĩa là một con người bằng khái niệm “ xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Sự rời bỏ của thế hệ trước từ năm 1954 cho đến hôm nay là minh chứng rõ nhất cho sự sống trong cái khái niệm gọi là "thiên đường xã hội chủ nghĩa". Xa hơn, nó còn là dấu hiệu cái chết của một dân tộc..
Nguồn: Paulo Facebook
Đánh giá tác động môi trường dự án thuỷ điện Đồng Nai 6 và 6A
Lê Quỳnh thực hiện
UNESCO đã công nhận khu dự trữ sinh quyển Đồng Nai. Đây là khu dự trữ sinh quyển được được phát triển rộng từ khu dự trữ sinh quyển Cát Tiên.
Trái ngược với nhiều lo ngại mà các nhà khoa học đã cảnh báo trước đây về việc xây dựng dự án thuỷ điện 6 và 6A, bản đánh giá báo cáo tác động môi trường (DTM) do chủ đầu tư – tập đoàn Đức Long Gia Lai – thuê viện Môi trường và tài nguyên (ĐH Quốc gia TP.HCM) thực hiện, cho rằng có thể xây dựng thuỷ điện tại khu vực vườn quốc gia Cát Tiên.
>>Xin cứu lấy rừng quốc gia Cát Tiên
>>Thủy điện có thật sự sạch và rẻ?
>>Nỗi lo toàn cảnh phát triển thủy điện ở nước ta
Trao đổi với phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị, PGS.TS Nguyễn Văn Phước, viện trưởng viện Môi trường và tài nguyên cho rằng: hoàn toàn có thể xây dựng được thuỷ điện 6 và 6A (!). “Nhiệm vụ của chúng tôi là làm rõ những quan ngại trước đây. Các nhà chuyên môn từng đưa ra nhiều quan ngại ảnh hưởng này kia là hoàn toàn đúng, nhưng khi chúng tôi khảo sát và tính toán thì cho thấy ảnh hưởng không đáng kể”, ông Phước khẳng định.
Ông nói như thế nào về những vấn đề chính trước đây còn chưa được làm rõ và gây ra nhiều tranh cãi, như về việc mất rừng?
Làm bất cứ dự án nào cũng gây ảnh hưởng môi trường, vấn đề là mất gì được gì. Điều tra của chúng tôi cho thấy, hiện trạng rừng bây giờ mất sạch rồi. Rừng khu vực này chỉ là rừng tái sinh, tre nứa, lồ ô phát triển lên, không có giá trị cao, không phải là rừng nguyên sinh. Hiện tại khu vực dự án chỉ có 4,32ha (1,16%) là rừng giàu; còn lại là rừng gỗ trung bình và rừng hỗn giao với 124,59ha (19,31%); rừng nghèo là 92,85ha (25%); còn lại là diện tích rừng lồ ô, cây bụi, đất trống chiếm 51,49% tổng diện tích chiếm đất. Ngoài ra, phần đất tuy được quy hoạch rừng phòng hộ thuộc tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng hiện nay thực tế đang là đất trồng điều và cao su.
Chúng tôi cũng chứng minh được rằng dự án này mất rất ít rừng so với các dự án thuỷ điện khác; trong đó rừng vườn quốc gia Cát Tiên chiếm rất ít, chỉ 136,98ha; rừng phòng hộ là 235,25ha. Các dự án thuỷ điện khác phải mất từ 4 – 10ha rừng mới được 1MW điện, còn dự án này chỉ mất khoảng 1,34 ha/MW. Lý do là: các dự án thuỷ điện trước đây chỉ làm một bậc, vực sâu không có nên chiếm diện tích lớn, còn bây giờ, thuỷ điện 6 và 6A sẽ đổi thành hai bậc, tận dụng vực sâu nên diện tích rừng mất ít. Hai bậc cũng giảm khả năng dòng chảy, tốt hơn cho môi trường.
Ngoài ra, địa hình khu vực này bị chia cắt mạnh, độ dốc bờ sông lớn, không phù hợp cho con người cũng như các động vật sinh sống, do đó không có dân cư sinh sống. Trên diện tích lòng hồ (262,85ha) bề rộng dòng sông hẹp, dốc đứng, thành phần đất gồm nhiều đá nên không thể canh tác được. Vào mùa lũ, mực nước thường dâng cao ngập hết khu vực này…
Cách đây không lâu, các nhà khoa học đã cảnh báo khu vực này là môi trường của loài vượn đen má vàng – một trong nhiều loài đặc hữu nằm trong Sách đỏ, rồi loài hoa mới Camellia longii vừa được công bố trên thế giới?
Chúng tôi đi khảo sát không thấy loài hoa này. Chúng tôi cũng ghi nhận được sáu loài thực vật ở khu vực Đồng Nai 6 và có chín loài thực vật ở Đồng Nai 6A có giá trị bảo tồn, nhưng số lượng không đáng kể, chiếm tỷ lệ rất thấp so với tổng số 80 loài thực vật có giá trị bảo tồn ở vườn quốc gia Cát Tiên. Điều này cho thấy khu vực dự án không phù hợp với sự phân bố của các loài quý hiếm.
Khu vực này chỉ còn bò sát lưỡng cư, kỳ nhông, tắc kè bông, ếch, rắn…, nhưng người dân thường vào đây bắt nên còn sót lại không nhiều cá thể, giá trị bảo tồn của nó không có. Số lượng thì không xác định được, chỉ đi và ngẫu nhiên gặp, chứ không phải đại trà. Các con khác như tê giác, gấu không phát hiện, nai thì thấy dấu vết. Cũng phát hiện chà vá chân đen, khỉ đuôi dài… Nhưng tất cả chỉ di chuyển qua chứ không sống ở khu vực này. Cũng nói thêm, ở vườn quốc gia Cát Tiên có đảo khỉ, đang có dự án của Đan Mạch tại đây, môi trường tương tự khu vực làm thuỷ điện, nên khi xây thuỷ điện phương án sẽ đưa vượn, khỉ về đảo khỉ.
Còn vấn đề ảnh hưởng tới hạ du, dòng chảy?
Thuỷ điện 6, 6A nằm kẹp giữa thuỷ điện Đồng Nai 5 (chuẩn bị hoạt động) và Trị An. Ví dụ không có Đồng Nai 6, 6A thì Đồng Nai 5, 3 cũng đã hoạt động rồi, nên tác động của 6 và 6A với nguồn nước hạ lưu cũng chỉ tương tự, đến hồ Trị An là triệt tiêu, do hồ Trị An rất lớn. Kết quả sử dụng mô hình cân bằng nước MIKE BASIN theo số liệu thuỷ văn đã thống kê trong nhiều năm, cho thấy: lưu lượng nước đến trung bình hồ Trị An bị suy giảm không đáng kể, chỉ khoảng 0,21m3/s vào năm nhiều nước; và 0,19m3/s vào năm ít nước (tương ứng 0,03% và 0,06% – nhỏ hơn 0,1%), nên tác động thay đổi dòng chảy được cho là không đáng kể và không ảnh hưởng đến nhu cầu sử dụng nước của hạ du. Khả năng ảnh hưởng đến nguồn nước hạ lưu như nhiễm mặn, ngập nước là không xảy ra, vì hiện nay hồ Trị An đang ở vai trò ổn định nguồn nước rồi.
Ngoài ra, chúng ta đang xây dựng chương trình vận hành liên hồ, đây là trách nhiệm của bộ Tài nguyên và môi trường. Chủ dự án cam kết thực hiện đúng kết quả chương trình này, tức là nếu có vận hành liên hồ thì khi xả lũ sẽ không bị ảnh hưởng.
Báo cáo có tính đến vấn đề biến đổi khí hậu, khi thời gian gần đây, nguồn nước lưu vực sông Đồng Nai đang có nhiều biến chuyển xấu, bất thường?
Làm thuỷ điện xây hồ đập còn là trữ nước, điều này tốt với tình hình biến đổi khí hậu. Như nếu không có hồ chứa nước thì mùa khô sẽ không có nước, nước biển dâng lên sẽ gây ngập mặn sâu hơn, còn nếu có hồ sẽ đẩy được mặn. Vận hành liên hồ trong thuỷ điện cũng sẽ phải đảm bảo dòng chảy môi trường, cho nên lúc nào cũng sẽ có nước.
Cũng có lo lắng, thời gian mưa ngắn lại, hiện tượng lũ có thể xảy ra. Nhưng trong kỹ thuật tính toán của chúng tôi, khi đó sẽ là lượng trữ nước lớn trong thời gian ngắn nên cần diện tích hồ trữ lớn hơn, nên có thêm hồ chứa là giải pháp tốt. Trên thực tế khi có thuỷ điện, hiện tượng lũ ở Đồng Nai không còn nữa. Hiện tượng ngập, đến cả khu hành chính của vườn quốc gia trong vòng năm năm trở lại đây đã không còn.
Như vậy ông cho rằng hoàn toàn có thể làm thuỷ điện 6, 6A?
Vâng. Trong những dự án thuỷ điện trước đây người ta chỉ mới quan tâm đến lợi ích kinh tế mà chưa quan tâm đến lợi ích môi trường. Nhưng ở đây, khi làm thuỷ điện sẽ mở ra các dịch vụ kèm theo, cuộc sống người dân sẽ tăng lên, đặc biệt về mặt văn hoá. Ngoài cam kết trồng lại rừng, dự án còn cam kết hỗ trợ xây trường học, bệnh viện, đường sá, và thu nhận người dân địa phương, đưa họ đi đào tạo và vào làm ở công trình thuỷ điện.
Tất cả những điều trên đều được tính vào chi phí. Tuy nhiên, làm thuỷ điện vẫn đem lại hiệu quả kinh tế cao nên chủ đầu tư chấp nhận. Tính toán, hàng năm thuỷ điện 6, 6A sẽ tạo được 929,16 triệu kWh với giá thành rẻ (khoảng 0,044 USD/kWh), cung cấp cho ba tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng và Dăk Nông.
Cắt rừng khỏi vườn quốc gia Cát Tiên để được công nhận di sản thiên nhiên thế giới
Tại quy hoạch bảo tồn và phát triển bền vững vườn quốc gia Cát Tiên đã được bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn phê duyệt vào tháng 7.2011, một phần diện tích rừng của vườn đã được chuyển sang mục đích phục vụ cho thuỷ điện 6 và 6A. Theo ông Phước, như vậy có nghĩa là gần 137ha rừng của vườn quốc gia Cát Tiên trong khu vực làm thuỷ điện không còn nằm trong vườn nữa, nên sẽ không gây ảnh hưởng đến việc vườn quốc gia Cát Tiên đang trình hồ sơ xin UNESCO công nhận là khu di sản thiên nhiên thế giới.
Theo SGTT
Theo Chánh thanh tra Bộ VHTTDL, những người gây ra "thảm họa trùng tu" chùa Trăm gian chỉ bị phạt tiền hoặc làm kiểm điểm. |
Theo ông Vũ Xuân Thành, chỉ cần lắp lại chùa Trăm gian là xong. Tuy nhiên, PGS. TS Trần Lâm Biền cho rằng dỡ ra có tính chất hủy hoại thì làm sao để lắp lại như cũ được. |
PGS. TS Trần Lâm Biền: Cần phải xử lý hình sự Trước việc này, PGS. TS về mỹ thuật truyền thống Trần Lâm Biền bày tỏ sự lo lắng về quan điểm "lắp lại chùa Trăm gian là xong". Ông nói: "Thanh tra nói thì bao giờ chả đơn giản. Ai đủ khả năng chuyên môn để làm được khi họ tháo ra một cách vô tổ chức như thế! Việc này không đơn giản đâu. Muốn dỡ ra để tu bổ phải chụp ảnh kỹ càng, định vị, đánh số. Phải làm vậy thì lúc lắp trả mới chính xác được. Đằng này, người ta dỡ ra theo tinh thần bỏ đi để làm mới nên người ta không đánh số thì lắp lại chắc chắn là "dâu ông này cắm cằm bà kia thôi". Ấy là chưa kể lúc tháo ra với tính thần đó thì họ vứt oạch xuống làm gẫy, vỡ hết. Một sự dỡ ra có tính chất hủy hoại thì làm sao để lắp lại như cũ được". Về việc xử phạt hành chính sư trụ trì chùa Trăm gian và kiểm điểm những người liên qua, PGS. TS Trần Lâm Biền cũng bày tỏ sự không đồng tình. Ông cho biết việc này phải truy cứu trách nhiệm hình sự, bởi đây là sự hủy hoại di tích quốc gia. "Di tích như người già bị ốm. Nếu bố tôi bị ốm, tôi đem đến cho bác sĩ chữa nhưng bác sĩ lại giết béng bố tôi đi, đưa cho tôi ông già khác bảo là bố tôi thì có chấp nhận được không? Di tích bị xây mới thì không còn là nó nữa. Bây giờ, chỉ có một kẻ bị truy cứu thì họ sẽ sợ và ngăn chặn được tình trạng này ngay. Tiếc là chưa ai làm", ông nói. "Nếu phạt hành chính, họ sẽ lấy tiền công đức ra nộp, có phải tiền túi của họ đâu", ông nói thêm. PGS. TS Trần Lâm Biền cũng cho biết ở rất nhiều chùa chiền ở Việt Nam bị hủy hoại theo kiểu trùng tu này và mức độ còn kinh khủng hơn ở chùa Trăm gian nhưng không được báo chí nói đến nên ít người biết. Ông chỉ ra những chùa bị hủy hoại kiểu này ngay ở Hà Nội như chùa Nga My ở quận Hoàng Mai, chùa Võng Thị, chùa Vạn Niên, chùa Hội Xá, chùa Cự Linh được làm mới hoàn toàn, theo phong cách "nửa Tàu nửa ta cực kỳ xa lạ"… GS Nguyễn Minh Thuyết: "Nếu vi phạm nghiêm trọng, gây hủy hoại di sản thì cần phải xử lý hình sự" Về việc này, GS Nguyễn Minh Thuyết, nguyên phó chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội nói: “Cần phải thanh tra, kiểm tra và đánh giá mức độ vi phạm. Nếu trong chừng mực nào đó thì có thể xử lý hành chính, còn nếu vi phạm nghiêm trọng, gây hủy hoại di sản thì cần phải xử lý hình sự. Và cần phải xử lý hình sự để có biện pháp răn đe đối với nhiều tổ chức, cá nhân khác”. |
Bà Đầm xòe
Nguyễn Huệ Chi
Chưa có một thời nào mà những chuyện nhố nhăng kệch cỡm lại diễn ra trâng tráo như thời buổi hôm nay. Cả một Chùa Trăm Gian nổi tiếng hàng mấy trăm năm bỗng dưng bị quan chức ngành văn hóa đè ra đập phá vô tội vạ nhân danh “tôn tạo”, kỳ thực chỉ là vì khoản tiền hàng mấy chục đến cả trăm tỷ đồng béo bở gói trong cái dự án tôn tạo quái dị này. Những lăng mộ các vua Trần ở Yên Sinh – một thời đại rạng rỡ những chiến công đánh giặc giữ nước, ngay dưới thời Nguyễn còn được các vua Nguyễn cho trùng tu cẩn thận, năm 1971 chúng tôi đi khảo sát còn chụp ảnh lưu niệm, thế mà cả một Nhà nước mải lo “4 tốt 16 chữ vàng” nên quên bẵng, để dân thi nhau sấn vào cướp phá đào xới tanh bành cho đến viên gạch cuối cùng, và chen lấn làm nhà lên đấy, rồi đến nay lại bảo nhau “lập dự án trùng tu”, hỏi có vạn lần vô phúc hay không?
Mà trùng tu như thế nào? Có ai đi trên con đường thiên lý ghé thăm đền thờ An Dương Vương (đền Cuông) ở Diễn Châu thì khắc thấy tất cả những tô đắp thô kệch rẻ tiền của xi măng thay cho các cột kèo điêu khắc tinh xảo bằng gỗ lim xưa kia (dù không phải thật cổ nhưng cũng đã bám đầy lớp patin của nhiều thế kỷ mà người viết bài này còn được thấy năm 1948 khi cùng gia đình đi tản cư ghé thăm nơi đó), cùng với những đôi câu đối xấu xí (cũng trên xi măng) làm cộm con mắt bất kỳ ai có chút kiến văn giờ đây đến thăm lại ngôi đền.
Trùng tu như người Nhật đã làm đối với đình chùa của họ trong Thế chiến thứ Hai vốn đang cũ kỹ bỗng sắc nét tinh khôi bội phần hơn thì ai mà không muốn. Còn ta, sao lại có một “An Dương Vương từ” lưu giữ trong ký ức và huyền thoại dân tộc từ hàng ngàn năm lịch sử mà đến một thời đại được gọi là “cách mạng” lại nỡ bôi bác nó đi như vậy, có phải là một sự mỉa mai cay đắng và là nỗi bẽ bàng trước du khách quốc tế hay không?
Tất nhiên đưa một đền Cuông ra làm dẫn chứng để bạn đọc suy ngẫm, rằng trên đất nước này đã gặp không phải chỉ một đền Cuông. Gần ta hơn nhiều là một đền Phù Đổng có vô số đôi câu đối khắc lại vừa chữ Hán vừa quốc ngữ chen nhau xấu xí đến khó chịu. Đôi câu đối lừng danh của Cao Bá Quát “Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn” (Giết giặc chỉ hiềm rằng ba tuổi đã là quá muộn), người cung tiến số tiền để thuê khắc lại còn không thèm đề tên Cao Bá Quát nữa mà thay luôn vào dòng lạc khoản cái tên của mình (một kiểu ỷ thế tiền bạc đến lạ lùng). Lại có đến ba tấm hoành phi rất cổ không biết từng khắc những gì nhưng từ lâu đã bị bào đi để khắc thay vào đấy... ba bài thơ quốc ngữ của Hồ Chí Minh, của Tố Hữu và của Ngô Chi Lan, và được treo vào những vị trí cực kỳ trang trọng trong ngôi đền!
Bên cạnh đó, lại có những hiện tượng lố lăng kiểu khác. Người ta vung tay bỏ hàng núi tiền ra để làm những ngôi chùa khổng lồ như chùa Bái Đính, nhưng những người “vung tay” mà vốn liếng hiểu biết có hạn hẳn chẳng thể nào thấm thía được nỗi đau đến xương tủy khi đứng trước những khối đá lù lù khoe khoang cái lớn cái oai một cách trơ tráo, song lại tuyệt nhiên không hề thấm được cái hồn của chùa chiền Việt Nam, sự thanh mảnh duyên dáng với mái cong hiền hoà nhưng ẩn trong nó là biểu tượng cô đúc của con người Việt Nam rất tinh tế mà không ồn ào trong cách sống, cách nhìn sự vật, và biết dẻo dai thích nghi để trường tồn.
Thử điểm lại mà xem, có bao nhiêu đình chùa miếu mạo, bia đá, sách cổ cho đến hồ ao, sông suối, thác ghềnh nổi tiếng... của đất nước đã bị hủy hoại bằng mọi cách kể từ 1948 đến nay? Con số tính đếm không sao cho xuể, và nếu có ai đi sâu làm một điều tra xã hội học để so sánh tỷ mỉ về mặt số lượng với khoảng thời gian từ 1945 trở về trước thì tôi đoan chắc họ sẽ thấy kinh hoàng vì con số hiện còn không thể đến một phần ba. Cứ nghĩ thế ai mà không thấy cực lòng đến xốn xang bứt rứt?
Hãy cứ ngắm bộ sách in vô số bản dập bia cổ của Việt Nam được người Pháp dập và lưu trữ từ ngày Viễn Đông Bác cổ thành lập (1901), nay cũng chính họ in lại giúp, gồm hơn 20 tập khổ lớn – mà chỉ mới in được hơn một phần ba, vì trong dự tính của họ là 55 tập – để giới văn hóa người Việt còn có cái mà nghiên cứu di sản của cha ông, tôi thấy hổ thấy nhục, bởi xét cho cùng chính mình lại là thủ phạm triệt tiêu tất cả những giá trị vật chất và tinh thần không có giá nào mua được, trong khi họ là kẻ đến xâm lược thì lo gom góp lại cho dân mình (tất nhiên họ cũng phá nhưng đó là đám nhà binh cai trị buổi đầu, và không phá nhiều bằng từ sau ngày Cách mạng thành công).
Vậy mà, những kẻ phải chịu trách nhiệm lớn nhất về những gì tổn thất trong 60 năm qua, những kẻ đã nhởn nhơ trước mọi sự xuống cấp văn hoá đang hiển hiện từng ngày từng giờ trên mọi phương diện của đời sống đất nước (những đảo lộn khó tin về lối sống, hành xử, đạo lý, giáo dục... đến những vụ giết người, cướp của, hiếp dâm ghê rợn nhất, bôi lên bộ mặt chế độ những vết đen nhằng nhịt), nay vẫn chính những kẻ ấy đang chỉ đạo việc tàn phá nốt những gì là môi trường sống, môi trường văn hóa còn sót lại ở đây hay ở đó khi chúng ngửi ra “hơi tiền” trong cái việc tàn phá man rợ kia.
Hãy chỉ khoanh lại trong phạm vi Thủ đô Hà Nội thôi. Giới trí thức đã bao nhiêu phen phải oằn mình chống chọi để mọi thứ dự án triệt hạ Hồ Tây vào hạng “khủng” không thể triển khai được (những Thủy cung Thăng Long, đường hầm ngầm xuyên qua lòng Hồ tây...). Nhưng Hồ Tây liệu đã yên thân chưa khi có tin một vị lãnh đạo cấp cao vừa ký xong “bản án” chấp thuận đóng cọc xuống giữa lòng Hồ làm con đường sắt vừa nổi vừa chìm sẽ cắt Hồ ra làm đôi cho một trục giao thông từ phía Bắc Hà Nội chạy xuống phố cổ? Cũng có tin sau khi vội vã ký, người ta đã kịp tỉnh lại, đã điều chỉnh sơ đồ con đường để... không còn chạm vào Hồ Tây. Tin trước là một cái tin thót tim và tin sau là một điềm lành. Dù sao, nếu keo này Hồ Tây tạm yên thì sẽ vẫn còn đó rất nhiều keo khác, dám tin như vậy đấy, bởi cái gì dính đến diện tích xung quanh và ngay giữa Hồ Tây, kể cả sâu dưới lòng Hồ, đều... “hái ra tiền”, mà đã hái ra tiền thì cặp mắt long lên của hết lớp “đầy tớ” này đến lớp “đầy tớ” nọ chắc chắn luôn luôn dòm đến. Khổ thân cho một “nàng Tây Thi của Việt Nam” (Cao Bá Quát) bị bọn Ngô Phù Sai đời nay lăm lăm vùi hoa dập liễu tàn bạo đến mức chúng có thể thoả thuận với nhau mỗi đứa cắt một miếng thịt tươi thắm của nàng.
Và không phải chỉ một Hồ Tây. Hiện tại đang là tiếng kêu cứu của Công viên Tuổi Trẻ và Công viên Thống Nhất. Một Hà Nội vừa được Nhà nước cho mở rộng ra gấp đôi gấp ba không hiểu sao không có kế hoạch bài bản xây dựng thành một đô thị có tầm quốc tế, không còn những ngõ ngách quanh queo chật chội như hũ nút, giãn dân ra những khu vực mới để hàng ngày người ta khỏi dẫm lên nhau mà lạng lách xe ô tô xe máy, xóa dần đi những khu ổ chuột không phải bằng những ngôi nhà chung cư chọc trời ngay giữa nội thành mà phải có cái nhìn viễn kiến về một quy hoạch cân đối, hài hòa và bảo đảm thẩm mỹ, để cải tạo lần lần những di họa của 60 năm xây dựng XHCN còn để lại? Trái lại, lúc nào cũng chỉ thấy các vị chấp chính của thành phố phô ra những cái nhìn ngắn có vài gang tay, trong đó có việc chiếm đất của Công viên Thống Nhất để làm 6 bãi đỗ xe, hoặc băm nhỏ Công viên Tuổi Trẻ thành nhiều mảnh để bán nốt, nếu không phải vì... túi tiền những ai ai đấy hình như chưa “phồng” thì chẳng thể hiểu được vì lẽ gì.
Xin hỏi ông Nguyễn Thế Thảo, ông có thấy một Thủ đô như Paris với những công viên rộng mênh mông như vườn Tuileries có một đời Thị trưởng nào dám cho dựng lên đấy một quán ăn hay xẻo đi một mảnh đất làm bãi đỗ xe hay không? Hay từ hàng mấy trăm năm nay vẫn chỉ là những vườn cây xanh mát với những ghế đá cũ xưa cho người dân đến thư thái ngồi đọc sách, và trẻ em chơi các trò chơi chúng thích? Thậm chí một cái ghế mà văn hào Anatole France thường ngồi để thưởng thức cái cảm giác của mùa thu nghe từng chiếc lá vàng rơi khẽ lên vai mình, nay vẫn còn nguyên vẹn. Mà nào có phải chỉ một vườn Tuileries. Ông hẳn đã sang đấy nhiều lần, đi đến đâu mà chẳng có vườn hoa trải dài ngút mắt? Nào Vườn Bách thảo (Jardin des plantes), Công viên La Villette, Vườn Luxembourg, Công viên Buttes Chaumont, Công viên Montsouris, Quảng trường Vendôme, Quảng trường la Concorde, khu vườn Champ de Mars... kể không hết được. Thử nghĩ nếu một Thị trưởng Paris nào lên chấp chính cũng nhăm nhăm bán vườn để thu lợi, cho người ta xây dựng bừa bãi lên những nơi vốn là sở hữu đích thực của toàn dân kia, bất chấp quyền thụ hưởng của dân chúng, thì liệu Paris sẽ biến thành một thứ gì khác chứ còn tráng lệ được như ngày nay?
Ấy thế mà một Thủ đô Hà Nội luôn luôn tự thị rằng mình có lịch sử đến 1.000 năm, đếm cho hết cũng chỉ có mấy khoảng xanh tí tẹo (nhưng như Công viên Thống Nhất tính từ 1960 đến nay thì cũng đã 50 năm rồi đấy, chưa kể khi nó còn là Hồ Bảy Mẫu mênh mông thì đúng là có ngót nghìn năm chứ ít gì), sao ông và đám quan chức dưới quyền ông nỡ liều lĩnh xẻ nó ra để cho xây lên đấy 6 bãi đỗ xe to tướng, suốt ngày sẽ ồn ào đinh tai nhức óc khiến phần dư lại chỉ còn bằng tí tẹo, và chắc chẳng một ai dám vào đấy mà thư giãn, tập thở, tập đi nữa? Đến nỗi Kiến trúc sư Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam, cũng phải lấy làm bức xúc: “Đây là dự án phi lý nhất mà tôi từng được nghe. Công viên là nơi để người dân sinh hoạt, vui chơi, giải trí trong bối cảnh thành phố ngột ngạt, thiếu cây xanh. Đừng vì mục đích nào đó mà dựng lên những công trình ngoạm vào đất công viên”. Ông có hình dung được một việc làm như thế là phạm luật, là vi phạm cảnh quan văn hóa, môi trường của thành phố và cả vi phạm nhân quyền (cái quyền được hưởng không gian thoáng mát của người dân), tức là phạm tội ác hay không thưa ông? Cũng như vậy, tôi không thể hình dung nổi một người đứng đầu thành phố như ông mà lại không dẹp nổi những “lấn chiếm” kéo dài quá lâu trong Công viên Tuổi Trẻ, giải thể tất cả những phần đất do những kẻ trót ham hố chia chác với quan chức các ông (hẳn là thế thôi, nếu không các vàng cũng đố họ dám phá tường trèo vào công viên) rồi dựng lên trong đấy những căn nhà làm nơi buôn bán, thi công, lò xưởng, quán ăn... để trả lại cho dân một không gian giúp 3 triệu con người nội thành có thêm một “chốn náu thân” yên tĩnh mỗi buổi sáng buổi chiều, giữa một thành phố nhìn đâu cũng đông nghẹt?
Từ những băn khoăn như trên, tôi bỗng ngạc nhiên không hiểu nổi chức trách Chủ tịch Ủy ban Nhân dân của ông thật ra chủ chốt là chức trách gì? Vì sao từ ngày ông lên chức đó, chỉ có việc quản lý Hà Nội cho đúng là nơi xanh sạch đẹp không thôi mà cũng không làm được? Chẳng cần dẫn chứng cụ thể, xin ông thử soát lại xem tất cả những công trình thuộc về những dự án to tát mà đám quan chức các ông đã vạch ra từ những 10 năm trước thời điểm 1000 năm thăng Long - Hà Nội, nay sau ngày kỷ niệm mới chưa đầy 2 năm chúng đã trở thành như thế nào rồi? Bản thân tôi đã đi đến một số nơi gắn tấm biển đánh dấu cả một thời điểm lịch sử đáng khắc ghi của người Hà Nội, và sau khi xem xong thì... không còn muốn phẩm bình gì nữa.
Thiết tưởng một Kiến trúc sư như ông không cần phải nói nhiều. Tôi chỉ mong mỏi ông có được một lúc giật mình nhìn lại mình thật rõ. Những người trước ông như ông Hoàng Văn Nghiên đã cho lấp Hồ Thủ Lệ để xây tòa khách sạn Daewoo và làm nhiều việc tai tiếng, dân Thủ đô vẫn còn đinh ninh trong lòng, nhưng thôi ta không nói nữa. Tuy nhiên, ông là một vị quan đương chức, là “gương mặt” để người ta nhìn vào khi nói đến hiện trạng của một Hà Nội thoái hóa về nhiều mặt, tôi nghĩ ông không thể tránh được công luận. Không thể làm cái kiểu “ngậm miệng ăn tiền” để rồi khi “hạ cánh” lại để lại vô số tai tiếng như những người tiền nhiệm của ông. Chúng tôi không mong điều đó mà mong ở ông những tự vấn nghiêm chỉnh để sửa đổi gấp cách điều hành Thủ đô sao cho chững chạc. Tôi vẫn không hết hy vọng ở nơi ông. Nhược bằng ông thấy không thể đảm đương tốt trách nhiệm trước toàn dân thì sao ông không lên tiếng xin từ chức? Hoặc giả, nếu ông thấy rằng mình tại vị cùng với những bê bối kéo dài trong tình thế “mặc kệ nó” là hoàn toàn chính đáng thì có lẽ nên có một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm của dân chúng Thủ đô – được tổ chức công khai và thật sự dân chủ – để xem nhân dân Hà Nội có còn tín nhiệm ông không.
N.H.C.
Phụ lục:
Hà Nội nhăm nhe “xẻ thịt” Công viên Thống Nhất
Sở Quy hoạch - Kiến trúc Hà Nội vừa có ý kiến ủng hộ dự án đầu tư xây dựng 2 bãi giữ xe công cộng nằm trong Công viên Thống Nhất. Công viên này cũng đề xuất xây 4 bãi giữ xe nữa
Sở Quy hoạch - Kiến trúc (QH-KT) TP Hà Nội vừa có văn bản truyền đạt ý kiến chỉ đạo của UBND TP về đề xuất của Công ty Khai thác điểm đỗ xe Hà Nội được đầu tư xây dựng bãi giữ xe dàn thép trong Công viên Thống Nhất. Theo đó, vị trí bãi giữ xe nằm ở góc đường Nguyễn Đình Chiểu - Trần Nhân Tông (trong phạm vi công viên), diện tích khoảng 3.000 m2, cao 4 tầng, đáp ứng nhu cầu đỗ xe cho khoảng 400 ô tô.
Mất gần 9.000 m2 đất
Theo Sở QH-KT TP Hà Nội, khu đất dự kiến xây dựng bãi giữ xe ở Công viên Thống Nhất đã được quy hoạch trong mạng lưới các điểm giữ xe công cộng trên địa bàn đến năm 2020; đồng thời cho rằng đề xuất của Công ty Khai thác điểm đỗ xe Hà Nội cơ bản là hợp lý. Một bãi giữ xe khác cũng “ăn” vào đất Công viên Thống Nhất đã được UBND TP Hà Nội gợi ý Công ty có thể phối hợp với Công viên xây dựng tại khu đất diện tích 2.000 m2.
Trong khi đó, Công viên Thống Nhất cũng đang lập dự án xin UBND TP Hà Nội cho phép xây dựng 4 bãi giữ xe trong khuôn viên. Các bãi đỗ xe này nằm ở vị trí gần các cổng vào, được Công viên Thống Nhất cho rằng nằm ở các khoảng không phù hợp, không làm ảnh hưởng đến phần diện tích trồng cây xanh và cảnh quan chung.
Tổng diện tích của 4 bãi đỗ xe này là 6.538 m2. Đại diện Công viên Thống Nhất cho biết các bãi giữ xe nhằm phục vụ người dân đến tham quan công viên lẫn nhu cầu của dân cư trong khu vực.
Khu vực Công viên Thống Nhất, đoạn góc đường Nguyễn Đình Chiểu – Trần Nhân Tông, dự kiến xây bãi giữ xe
Các dự án bãi giữ xe này hiện vẫn đang trong giai đoạn đề xuất nhưng nếu được TP Hà Nội chấp thuận, Công viên Thống Nhất sẽ mất gần 9.000 m2 đất.
Hậu quả khó khắc phục
Được xem là lá phổi xanh lớn nhất khu vực nội thành Hà Nội, Công viên Thống Nhất xây dựng từ đầu những năm 1960, là khu vui chơi giải trí, thư giãn của người dân Thủ đô cũng như điểm đến của du khách.
TS - kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Hoa (Hội Kiến trúc sư Việt Nam) cho biết TP Hà Nội hiện có trên 3 triệu dân sống ở khu vực nội thành. Diện tích cây xanh trên đầu người ở nội đô Hà Nội hiện rất thấp, chỉ bằng khoảng 1/10 các đô thị lớn trong khu vực. Vì thế, các công viên Thống Nhất, Bách Thảo, Thủ Lệ… là những lá phổi xanh rất quan trọng giúp điều hòa, cân bằng không khí cho Hà Nội. “Thiếu nơi giữ xe cho người dân là đáng báo động nhưng nếu lấy đất công viên thì tác động rất lớn đến môi trường, sinh thái đô thị và đời sống khu dân cư” - ông Hoa lo ngại.
Ông Đào Ngọc Nghiêm, nguyên Giám đốc Sở QH-KT TP Hà Nội, cho rằng nhu cầu nơi giữ xe cho người dân Hà Nội dù đang bức thiết nhưng nếu đánh đổi cả lá phổi xanh thì hậu quả khó khắc phục. Theo ông Nghiêm, quy hoạch Công viên Thống Nhất năm 1994 và năm 2004 đều dành một phần diện tích để làm bãi giữ xe cho du khách chứ không nhằm tạo dựng bãi giữ xe công cộng. “Cần xem lại việc lấy đất công viên để làm bãi giữ xe đáp ứng nhu cầu của cả TP” - ông kiến nghị.
Phi lý! Kiến trúc sư Nguyễn Tấn Vạn, Chủ tịch Hội Kiến trúc sư Việt Nam, nhìn nhận: “Đây là dự án phi lý nhất mà tôi từng được nghe. Công viên là nơi để người dân sinh hoạt, vui chơi, giải trí trong bối cảnh TP ngột ngạt, thiếu cây xanh. Đừng vì mục đích nào đó mà dựng lên những công trình ngoạm vào đất công viên”. |