SGTT.VN - Là người Việt đầu tiên nhận được học bổng đại
học Harvard (1964), trong thời gian du học tại Mỹ, Ngô Vĩnh Long được
tặng biệt danh “the free man” (người tự do) khi hoạt động trong phong
trào đòi hoà bình. Bởi ông không là hội viên chính thức của một hội đặc
biệt nào, không nhận bất cứ chức vị nào, một đồng tiền nào, để có thể tự
do có tiếng nói phản biện. Tinh thần ấy vẫn nguyên vẹn khi ông là tổng
giám đốc trung tâm Tài liệu Việt Nam ở Cambridge hay giảng dạy lịch sử
tại đại học Maine hôm nay.
Vì sao sau khi bước chân vào đại học danh tiếng
nhất nước Mỹ, con người nho nhã, thư sinh trong ông lại trở thành con
người quyết liệt đấu tranh cho những vấn đề hệ trọng của dân tộc?
Thật ra đại học danh tiếng bậc nhất không có nghĩa là
giáo sư và sinh viên ở đó đều giỏi. Giáo sư Harvard nổi tiếng là “không
biết dạy” vì họ ỷ sinh viên đã được lựa chọn kỹ rồi, có thể tự đọc và
hiểu các đống sách họ bắt đọc nên đến giờ dạy họ cứ đến giảng ào ào rồi
bỏ đi, chắc là đi nghiên cứu hay làm cố vấn cho các công ty và người có
quyền lực. Tôi là thằng ít học từ Việt Nam sang nên không hiểu quyền lực
là gì và lại càng không hiểu cái “đặc ân” mà Harvard đã ban bố cho tôi.
Tôi chỉ biết là phần lớn các giáo sư Harvard khi tôi đến đó ủng hộ
chính sách của Mỹ ở Việt Nam và các nơi khác, nên tôi thấy mình có trách
nhiệm nói ra những điều tôi biết và nghĩ. Giáo sư John King Fairbanks,
trong chiến tranh thứ hai đứng đầu cơ quan OSS (Office of Strategic
Service, tiền thân của CIA) ở Trung Quốc và được cho là ông tổ của ngành
Đông Á học ở Mỹ, có khuyên tôi là nên bớt hoạt động ngay từ những tháng
cuối năm 1964 khi ông thấy tôi đi hết đại học này đến đại học khác và
cả các trường trung học gần như mỗi tuần để nói chuyện về tình hình Việt
Nam, châu Á và chính sách của Mỹ. Ông ấy nghĩ tôi có thể trả giá rất
đắt vì tôi không phải là người Mỹ và chưa có địa vị gì hết. Tôi trả lời
với ông ấy rằng ông biết quan niệm “quân sư phụ” là như thế nào, nhưng
chính vì Mỹ là thầy tôi và Việt Nam là cha tôi, tôi có bổn phận ngăn
ngừa hai bên đi đến chỗ giết nhau. Do đó, vì hoạt động tích cực cho hoà
bình và công lý, tôi ngẫu nhiên trở thành một trong những người đầu tiên
gầy dựng phong trào hoà bình ở Mỹ.
Đó là trong quá khứ. Còn trong bối cảnh hiện nay,
Việt Nam có cơ hội như thế nào để giành được sự ủng hộ của thế giới
trong bảo vệ chủ quyền biển đảo?
Những hành động càng ngày càng bất chấp phải trái và
bất chấp luật pháp quốc tế của Trung Quốc đã cho dư luận thế giới thấy
rõ sự ngang ngược của nước này. Đây là thời cơ hiếm có để Việt Nam cương
quyết lên tiếng bảo vệ quyền lợi của đất nước cũng như an ninh của khu
vực. Tiếng nói chính trực của Việt Nam nhất thiết sẽ giành được sự ủng
hộ của thế giới bên ngoài và hậu thuẫn của nhân dân trong nước.
Nếu Việt Nam không nối kết việc đòi chủ quyền của
mình tại hai quần đảo Trường Sa – Hoàng Sa với an ninh chung trên biển
cũng như trên đất liền, quốc tế hoá hồ sơ Hoàng Sa, thì sẽ thiệt thòi
rất lớn?
Vấn đề chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
tuy ở ngoài khơi biển Đông, rất khác với vấn đề thông thương và an ninh
chung trên Biển Đông. Hoa Kỳ đã nói đi nói lại trong nhiều năm qua là họ
không dính líu với việc tranh chấp chủ quyền, nhưng họ sẽ giúp bảo vệ
thông thương hàng hải và an ninh chung trong khu vực. Nhưng Trung Quốc
đã dùng vũ lực chiếm trọn Hoàng Sa và một số đảo tại quần đảo Trường Sa
rồi lại tung ra cái đường chín đoạn (đường lưỡi bò) với ý định đòi “khu
vực đặc quyền kinh tế” hai trăm hải lý từ các quần đảo này để chiếm hữu
lãnh hải của các nước khác trong khu vực, cũng như để cấm thông thương
và các hoạt động kinh tế khác ở Biển Đông.
Mới đầu nhiều người tưởng đây
là yêu sách huyễn hoặc, nhưng việc Trung Quốc bắt ngư dân Việt Nam và
các nước khác và kêu gọi đấu thầu khai thác dầu khí trên Biển Đông cho
thấy Trung Quốc cương quyết thực hiện tham vọng của họ và gây mất an
ninh cho toàn khu vực. Cho nên Việt Nam phải liên tục nối kết vấn đề đòi
chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với an ninh chung trên
biển. Vì Trung Quốc đã đánh chiếm Hoàng Sa bằng vũ lực và dùng địa thế
Hoàng Sa để đe doạ an ninh chung, nên Việt Nam cần vận động dư luận thế
giới để đưa Trung Quốc ra trước các toà án quốc tế. Không thể để việc
đánh chiếm bằng vũ lực là chuyện đã rồi. Trường Sa cũng vậy, nên đem
Trung Quốc ra trước công luận và toà án thế giới về những đảo của Việt
Nam mà Trung Quốc đã chiếm bằng vũ lực.
Trong thời điểm nhiều ý nghĩa này, sự đồng lòng của
toàn thể dân tộc là điều hết sức quan trọng. Theo ông, làm thế nào để
hàn gắn vết thương chiến tranh và tạo điều kiện cho việc hoà hợp, hoà
giải dân tộc thực sự?
Chiến tranh bất cứ ở đâu và bất cứ ở thời điểm nào cũng
gây rất nhiều tương tàn và phân hoá về mọi mặt. Chiến tranh càng dài
phân hoá càng cao, dẫu là chiến tranh giành lại độc lập cho đất nước.
Muốn tạo điều kiện thực sự cho việc hoà hợp, hoà giải dân tộc và mở cửa
cho tương lai thì nên nhìn lại quá khứ một cách trung thực và công bằng,
và nên cố gắng tạo những điều kiện và cơ chế giúp cho việc dựng nên một
xã hội công bằng, dân chủ, hài hoà.
Quan tâm nhiều đến các vấn đề xã hội, thời sự nóng
bỏng trên thế giới và ảnh hưởng của nó đến kinh tế Việt Nam, điều gì làm
ông lo lắng nhất?
Điều làm tôi lo nhất, ngay tại Mỹ và gần như khắp nơi
trên thế giới, là sự bất bình đẳng càng ngày càng lớn và càng nhanh.
Việc này có thể dẫn đến bất ổn định trong nhiều nước cũng như chiến
tranh giữa một số nước. Tôi đã viết về điều này từ thập niên 90 thế kỷ
trước, phân tích lý do tại sao “toàn cầu hoá” sẽ tạo nên bất bình đẳng
càng ngày càng cao trong mỗi nước và giữa các nước. Có người đã cười
tôi, có người nói thẳng vào mặt tôi trước nhiều người khác là tôi “thấy
xe chữa lửa chạy qua bèn kết luận là có đám cháy ở đâu đó”. Có thể tôi
quá viển vông và tôi mong rằng tôi đã sai.
Ông nhìn thấy nguy cơ nào từ tình trạng phát
triển kinh tế ngày càng tập trung tiền bạc vào trong tay một
số nhóm lợi ích?
Đây là trào lưu chung của nhiều nước, trong đó có các
cường quốc như Hoa Kỳ, Anh, Nhật... Nhưng ở những nước quyền lực được
thâu tóm trong tay một số nhóm lợi ích như ở Trung Quốc, Ai Cập,
Libya... vì việc tập trung rất lớn, rất nhanh và gây bất bình đẳng rất
lớn. Ở Ai Cập và Libya, tình trạng trên đã dẫn đến bạo động và chiến
tranh. Ở Trung Quốc, bộ máy chính quyền còn sức rất lớn cũng như còn đủ
dự trữ kinh tế để giải quyết một số vấn đề. Nhưng tôi không nghĩ “mô
hình Trung Quốc” hay “đồng thuận Bắc Kinh” là giải pháp bền vững.
Đồng thuận tốt nhất là đồng thuận được xây
trên nền tảng công bằng và dân chủ, để có thể giải quyết vấn nạn bất
bình đẳng và bao nhiêu tệ nạn xã hội khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
một cách đơn giản về các vấn đề cốt tử của đất nước như sau: “Khó trăm
bề dân liệu cũng xong”.
|
Theo ông, làm thế nào để đạt tới sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề cốt tử của đất nước?
Tôi nghĩ đồng thuận tốt nhất là đồng thuận được xây
trên nền tảng công bằng và dân chủ, để có thể giải quyết vấn nạn bất
bình đẳng và bao nhiêu tệ nạn xã hội khác. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói
một cách đơn giản về các vấn đề cốt tử của đất nước như sau: “Khó trăm
bề dân liệu cũng xong”.
Bố ông là người Bắc Ninh, mẹ là người Huế, dắt díu
nhau vào Nam kiếm sống rồi sinh ông ở Vĩnh Long, cuộc đời lưu lạc phải
chăng đã khiến ông nặng lòng với quê hương, với người nông dân Việt Nam,
để viết tác phẩm Trước cách mạng: nông dân Việt Nam dưới thời Pháp
thuộc?
Khó mà biết cái gì đã ảnh hưởng đến nhân sinh quan hay
lý tưởng của mình. Nhưng tôi chắc là ảnh hưởng của bố tôi rất lớn. Bố
tôi là người có nhiều lý tưởng và đã chia hết của cải họ Ngô ở Từ Sơn và
những nơi khác cho gia đình và người trong các làng để vào Nam hoạt
động. Bố tôi dạy học cho các đồng đội theo cách mạng và bất cứ ai muốn
học, trong khi đó thì đi hớt tóc và làm nghề nông để sống. Bố tôi bị Tây
bắt năm 1950, tra tấn gần chết, xương sườn bị gãy và đâm vào phổi… Bố
và tôi thường nói chuyện với nhau và tôi nhớ có lúc bố tôi chỉ các đỉnh
núi và nói: “Con biết không, Montesquieu có nói là người nào ngồi trên
đỉnh núi cao nhất cũng vẫn là ngồi trên mông mình con ạ. Và tục ngữ ta
có câu, càng cao danh vọng càng dày gian nan”.
Rồi ông cụ giảng cho tôi
biết lại sao tiền tài và quyền lực không những làm cho người ta tha hoá
và gây biết bao khổ đau cho người khác, mà có thể bị mất hết bất cứ lúc
nào. Còn sự hiểu biết và tình thương, như ngọn lửa của những cây nến,
không những toả sáng và giúp soi đường đi cho chính mình và cho người
khác mà còn có thể truyền mãi về sau. Ông cụ còn luôn dặn dò tình thương
là bất diệt và khi tôi trưởng thành, nếu tôi không giúp được gì cho ai
thì cũng cố gắng đừng bao giờ làm ai đau khổ.
Sự đau khổ của nông dân là một trong những lý do khiến
tôi viết cuốn sách Before the revolution: the Vietnamese peasants under
the French (Trước cách mạng: nông dân Việt Nam dưới thời Pháp thuộc).
Rồi sự đau khổ và chịu đựng của phụ nữ cũng đã là một trong những lý do
thúc đẩy tôi xuất bản, năm 1973, cuốn Vietnamese women in society and
revolution (Phụ nữ Việt Nam trong xã hội và cách mạng).
Có hai lý do
chính khiến tôi viết hai cuốn sách này: một là vì nông dân và phụ nữ là
hai tầng lớp đông đảo nhất, chịu nhiều áp bức nhất, đóng các vai trò
quan trọng nhất trong xã hội và cách mạng nhưng lại ít được nói đến nhất
(nếu không nói cố tình phớt qua vì nhiều lý do). Hai là tôi muốn đưa ra
một số nhận thức về việc nghiên cứu nông dân và phụ nữ thì nên có
phương pháp gì, dùng tài liệu gì, phân tích như thế nào... Trong giới
học thuật, lý do thứ hai này đã làm nhiều học giả cho rằng hai cuốn sách
trên của tôi là “kinh điển” không lâu sau khi chúng được công bố. Tôi
thường viết rất ngắn gọn và đơn giản, đặt rất nhiều vấn đề cho những
người nghiên cứu về nông dân, nông thôn, phụ nữ. Tôi viết để đóng góp
cho sự hiểu biết chung, mặc dầu đề tài có thể là các vấn đề của Việt
Nam.
Muốn tạo điều kiện thực sự cho việc hoà
hợp, hoà giải dân tộc và mở cửa cho tương lai thì nên nhìn lại quá khứ
một cách trung thực và công bằng, và nên cố gắng tạo những điều kiện và
cơ chế giúp cho việc dựng nên một xã hội công bằng, dân chủ, hài hoà.
|
Lý do nào ông chọn nghiệp làm thầy? Ông nghĩ gì về hình ảnh một người thầy mới?
Người thầy không chỉ đào tạo những người lao động mà
còn đào tạo công dân và những con người có trách nhiệm cao với dân tộc,
quốc gia và cả thế giới. Tôi nghĩ một phần do ảnh hưởng từ bố vì bố tôi
cho rằng hiểu biết và tình thương là bất diệt. Sau đó tôi nghiệm ra,
hiểu biết chính là biết cái gì đúng, cái gì sai, và việc này phải truyền
đạt qua giáo dục. Chính bản thân tôi, trước khi sang Mỹ và trong khi
chống chính sách của Mỹ ở Việt Nam hay ở nhiều nơi khác, tôi làm những
việc đó vì con người nói chung chứ không phải vì dân tộc hay quốc gia
nào.
Tôi đã đào tạo bao thế hệ sinh viên Mỹ trên 30 năm nay trước hết là
để họ “thành nhân”, tức biết tự phân tích xem cái gì đúng cái gì sai
không những trong các lĩnh vực chuyên môn mà cả trong cuộc đời nói
chung. Nhiều nơi trên đất Mỹ “cái học ngày nay đã hỏng rồi” (sinh viên
đi học phần lớn để lấy điểm, lấy bằng, làm tiền...) nên tôi càng phải cố
gắng dạy lại sinh viên của tôi từ cách đọc, cách viết, cách phân tích
các vấn đề lớn nhỏ để họ có thể biết ngay đúng sai ở chỗ nào. Nếu chưa
biết hay chưa kết luận được thì phải nghiên cứu và suy nghĩ thêm chứ
không phải cứ lấy một đống thông tin là tưởng mình hiểu biết. Bạn bè và
đồng nghiệp thường cười và nói rằng họ chẳng biết tại sao tôi cứ “luôn
luôn lội ngược dòng”.
Điều gì giúp ông vượt qua những nỗi buồn nhân thế?
Nhân sinh quan của tôi rất đơn giản: tìm vui trong việc
làm và cố gắng làm gì được thì làm trong khi còn sức. Còn chuyện buồn
đau, trắc trở, thì ai lại không gặp?
Một vài người đã cho tôi biệt hiệu “Ngô đại nhăn”, có
thể vì nhiều khi họ thấy tôi khó chịu ra mặt với những bất công hay giày
xéo nhau mà nhiều người cho là bình thường.
thực hiện Kim Yến
chân dung hội hoạ Hoàng Tường
chân dung hội hoạ Hoàng Tường
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét