Trefor Moss, The Diplomat, 7 tháng Chín 2012
Trần Ngọc Cư dịch
BVN
xin được phép kính báo đến bạn đọc và các bloggers xa gần: Từ khi thành
lập đến nay, nhiều bài viết, bài dịch trên trang mạng của chúng tôi đã
được bạn đọc chiếu cố, đọc và truyền nhau trên các địa chỉ thư tín cũng
như đăng lại trên các trang mạng và blogs trong ngoài nước. Đó là điều
hân hạnh cho chúng tôi và cũng là nguyện vọng và mục tiêu mở rộng thông
tin nhằm đưa sự thật nhiều chiều đến tận những ai ít am hiểu thời sự
nhất, của giới truyền thông chúng ta.
Chỉ
có một nguyên tắc mà theo chúng tôi, đạo đức của người làm báo cũng như
của người đưa tin không được phép vi phạm, đó là phải đưa đầy đủ tên
tác giả, dịch giả và xuất xứ nguyên gốc của sản phẩm mình mong muốn
truyền cho người khác, điều đó bảo đảm giá trị đích thực của nguồn tin,
cũng bảo vệ bản quyền của người đã bỏ công lao động để tạo nên nguồn
tin.
Thời gian qua nhiều bạn đọc gửi thư về cho biết, không ít bài đăng trên BVN đã bị tước bỏ cả tên người dịch hoặc tên tác giả và xuất xứ gốc của nó rồi cứ thế lưu hành. Chẳng hạn bài Cung
cấp thêm một bài báo sặc mùi hiếu chiến trên trang mạng Trung
Cộng:“Phải giết bọn giặc Việt Nam để làm lễ vật tế cờ trong trận chiến
thu hồi Nam Sa” của dịch giả Vũ Cao Đàm đăng trên boxitvn.net và
boxitvn.blogspot.com ngày 14/5/2010 đã trở thành một bài dịch mang tên
khác, không biết ai dịch và trôi nổi trên thị trường báo chí (xin xem: danlambaovn.blogspot.com), hay như bài Chủ nghĩa dân tộc vị kỷ của Trung Quốc
của dịch giả Trần Ngọc Cư đăng trên boxitvn.net và boxitvn.blogspot.com
ngày 6/9/2012 cũng rơi vào tình cảnh tương tự (xin xem: reds.vn).
Chúng
tôi khẳng định đây chỉ là một vài trường hợp cá biệt, và tin chắc rằng
sau lời kính báo này, hiện tượng đáng tiếc đó sẽ không còn tái diễn.
Trân trọng cám ơn.
Bauxite Việt Nam
|
![clip_image001 clip_image001](http://lh6.ggpht.com/-8zfmb99wFwg/UE6SdXZutDI/AAAAAAAAV0A/VdsdtP1lPUA/clip_image001%25255B3%25255D.jpg?imgmax=800)
Mặc
dù có nhiều người đặt tin tưởng vào một bộ Quy tắc ứng xử (Code of
Conduct) cho vấn đề biển Đông, một số người khác lại tự hỏi là liệu
Trung Quốc có cố tình trì hoãn để mua thời gian hay không. Như vậy, một
giải pháp đích thực, nếu có, cũng phải mất nhiều năm mới hình thành.
Biển
Đông thường được mô tả như là một trong những cuộc tranh chấp lãnh thổ
gai góc nhất thế giới. Tuy nhiên, nếu có một nhóm quan sát viên đủ khách
quan và hoàn toàn không thiên vị, họ sẽ nhận thấy lối mô tả vừa nói là
lạ lẫm. Thật vậy, đối với nhóm quan sát viên giả định này, những gì cần
phải thực hiện để chí ít làm giảm bớt tình hình căng thẳng tại biển Đông
một cách đáng kể, trông có vẻ hiển nhiên đến khó chịu. Một kế hoạch như
thế có thể sẽ bắt đầu bằng bốn giai đoạn đơn giản:
Bước 1:
Đặt các vấn đề chủ quyền qua một bên. Những vấn đề này là quá phức tạp
và đầy cảm tính, không thể giải quyết trong một tương lai có thể trông
thấy.
Bước 2: Xác định nước nào
có tuyên bố chủ quyền trên vùng biển nào. Trung Quốc, chẳng hạn, là cực
kỳ muốn bảo vệ chủ quyền của mình, nhưng lại chưa bao giờ tuyên bố chính
xác Trung Quốc thực sự làm chủ vùng nào trong biển Đông (việc vẽ ra một
cách mơ hồ những đường đứt đoạn trên một bản đồ là không có giá trị).
Các đòi hỏi chủ quyền phải được gửi đến Tòa án Quốc tế LHQ trước ngày
nhất định – có ghi rõ đầy đủ toạ độ kinh tuyến và vĩ tuyến của vùng lãnh
thổ – nếu không, sẽ bị thế giới coi như là thiếu cơ sở.
Bước 3:
Áp dụng Công ước LHQ về Luật Biển (UNCLOS) ở bất cứ nơi nào có thể áp
dụng. Ở đây có một sự trùng hợp đáng mừng là: tất cả các nước đòi hỏi
chủ quyền trên biển Đông đều đã phê chuẩn UNCLOS. Điều này lẽ ra phải
giúp cho tình hình dễ giải quyết hơn nhiều. Đối với các vùng không bị
tranh chấp, UNCLOS quy định rõ ràng các quyền của quốc gia có chủ quyền
cũng như các quốc gia không có chủ quyền trong các vùng lãnh hải và các
khu đặc quyền kinh tế. Bất cứ vấn đề nào Công ước (Điều 279 ff,) cũng
đều có một cơ chế giải quyết tranh chấp chi tiết.
Bước 4:
Trung lập hóa các vùng tranh chấp. Nếu các nước tranh chấp thực sự muốn
duy trì hòa bình và ổn định tại biển Đông – và tất cả các nước đều nói
họ muốn – thì rõ ràng là, họ cần phải thảo ra một bộ quy tắc để quản lý
việc gì được cho phép và việc gì không được cho phép trong những khu
tranh chấp. Họ có thể gọi đó là một bộ Quy tắc ứng xử, hay bằng một từ
ngữ tương tự. Những quy tắc này có thể bao gồm việc: phi quân sự hóa
những vùng tranh chấp (demilitarization of disputed areas); tránh bất cứ
một luận điệu hay hành động khiêu khích nào, chẳng hạn như các dự án
xây dựng mới trên các đảo tranh chấp; không thăm dò hay khai thác các
tài nguyên dưới biển, trừ phi các nước tranh chấp thỏa thuận hợp tác để
thực hiện việc này; và thiết lập một cơ chế giải quyết tranh chấp; có
thể đặt dưới sự bảo trợ của Toà án Quốc tế.
Tất
cả những điều nói trên nghe ra thật đơn giản. Nhưng nếu đi ra ngoài lãnh
vực “Giải quyết tranh chấp tưởng tượng” này để trở về với thế giới hỗn
độn của chính trị quốc tế, kế hoạch nhỏ bé này hoàn toàn không thể khởi
động được. Lý do chủ yếu là, nhiều quốc gia khác nhau chẩn đoán vấn đề
biển Đông theo nhiều cách khác nhau. Một số nước cho rằng tình hình hiện
nay là rất nguy hiểm và cần có giải pháp. Một số nước khác, đặc biệt là
Trung Quốc, lại hoàn toàn thoải mái với nguyên trạng (the status quo).
Đối
với nhiều quan sát viên, những tranh chấp gần đây về Bãi cạn
Scarborough và các lãnh thổ đảo khác đã trở nên một vấn đề rất đáng quan
tâm. Nhưng Bắc Kinh thì ít giao động hơn nhiều. Thật ra, chiến lược của
Trung Quốc là cố tình duy trì nguyên trạng có khi bất ổn này (sometimes
messy status quo), trong khi bề ngoài TQ cố làm ra vẻ cộng tác trong
việc tìm kiếm một giải pháp lâu dài, chỉ để tránh bị quy kết là kẻ tạo
ra vấn đề. Trung Quốc tính toán rằng những căng thẳng này sẽ không có
khả năng dẫn đến xung đột vũ trang, và chúng là cái giá mà TQ có thể
chấp nhận phải trả cho việc tiếp tục hành động [sai trái] của mình tại
các vùng tranh chấp, mà không ai làm gì được. Đồng thời, Bắc Kinh cũng
không muốn bước quá lằn ranh, vì làm như thế sẽ có hại cho uy tín của TQ
tại Đông Nam Á (hiện có một số nước thân Trung Quốc) và chỉ mời mọc Hoa
Kỳ can thiệp nhiều hơn nữa vào khu vực.
Cử chỉ hợp tác cao đẹp nhất của Bắc Kinh cho đến nay là thiết lập Quỹ hợp tác trên biển Trung Quốc-ASEAN trị giá 3 tỉ yuan
(hay 473 triệu USD) năm 2011. Hiện nay đang có những cuộc thảo luận
liên quan đến cách sử dụng số tiền này cho việc thực thi bản Tuyên bố
ứng xử (Declaration of Conduct, hay DOC) năm 2002 về vấn đề biển Đông.
Theo Ian Storey, một nhà nghiên cứu thâm niên tại Viện Nghiên cứu Đông
Nam Á tại Singapore, đây là một nỗ lực nhằm chuẩn bị cho việc đưa ra một
thông cáo chung đánh dấu kỷ niệm năm thứ 10 ngày ký kết DOC đầu tiên.
Nhưng sự kiện này có thực sự đáng được liên hoan hay không? DOC là một
nghị định thư bất thành (a failed protocol) chưa bao giờ được thực thi
nghiêm chỉnh – và đây là lý do cần có một cuộc vận động nhằm thúc đẩy
việc hình thành một bộ Quy tắc ứng xử mới (a new Code of Conduct).
Storey nhận xét: “Theo quan điểm của Trung Quốc, một số thành viên ASEAN
đã liên tục vi phạm DOC; nhưng đó cũng là quan điểm của một số nước
ASEAN đối với Trung Quốc”.
“Nhưng liệu Trung
Quốc có thực sự muốn một bộ Quy tắc ứng xử có thực lực hay không?”
Storey nêu câu hỏi và tự giải đáp. “Tôi nghĩ câu trả lời là không. Một
bộ quy tắc thực sự hữu hiệu sẽ hạn chế quyền tự do thao túng của Trung
Quốc trên biển Đông, và các nước lớn thường không thích một điều như
vậy”.
Philippines, Việt Nam và một số nước tranh
chấp khác rõ ràng đã đi đến cùng một kết luận về sự cam kết ỡm ờ của
Trung Quốc đối với việc soạn thảo một bộ Quy tắc ứng xử (COC) có ý
nghĩa. Đề nghị của Philippines được Hà Nội hậu thuẫn đòi hỏi một bộ Quy
tắc ứng xử có thực quyền đã bị các thành viên ASEAN sửa đổi cho yếu đi,
chỉ vì họ sợ làm mất lòng Trung Quốc. Gần đây hơn, cuộc họp Bộ trưởng
Ngoại giao vào tháng Bảy tại Phnom Penh đã trở thành một trò hề, vì
Campuchia, nước giữ ghế Chủ tịch hiện nay, nhằm bảo vệ lợi ích của Trung
Quốc, đã tìm cách ngăn chặn một cuộc thảo luận tích cực về tranh chấp
biển Đông. Campuchia đã bán đứng ASEAN: bằng hành động này, Phnom Penh
đã cho phép Trung Quốc thực hiện một chính sách can thiệp với đặc quyền
ngoại giao (extraterritorial interference) tại một cơ chế then chốt của
Đông Nam Á. Đối với Trung Quốc, đây là một cuộc đảo chính ngoại giao (a
foreign policy coup).
Cố gắng làm cái việc mà
Campuchia không làm được, Indonesia liền đó đã chứng tỏ với ASEAN khả
năng lãnh đạo của mình sau sự thất bại thảm hại của Hội nghị Phnom Penh,
bằng cách vá víu để đúc kết một lập trường chung gọi là “Nguyên tắc
sáu-điểm về biển Nam Trung Hoa [biển Đông VN]”. Mặc dù tốt hơn sự kiện
Campuchia không đưa ra được một thông cáo chung nào, lập trường do
Indonesia bảo trợ không đi ra ngoài việc kêu gọi “sớm hoàn tất” tiến
trình soạn thảo bộ Quy tắc ứng xử.
Nhưng điều đó
sẽ không diễn ra. Trung Quốc đã bắt đầu trì hoãn các cuộc đàm phán,
khiến chúng khó có triển vọng diễn ra trước năm 2013 (cuộc chuyển giao
quyền lực tại Bắc Kinh loại trừ bất cứ động thái nào trong một tương lai
gần có liên quan đến một vấn đề gây tranh cãi như thế). Một bộ Quy tắc
ứng xử mới vì thế không thể xuất hiện trước năm 2014 là thời điểm sớm
nhất.
Tất nhiên, nếu đó là một bộ quy tắc ứng xử
hữu hiệu, tìm cách điều tiết hành vi của các nước có yêu sách chủ
quyền, thì đó là một viễn ảnh đáng chờ đợi. Nhưng không ai dự kiến điều
này sẽ diễn ra. “Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất cứ điều gì có tính
cách bắt buộc”; đó là kết luận của Carlyle Thayer, Giáo sư danh dự tại
Học viện Quốc phòng Úc.
Lạ thay, lẽ ra Trung
Quốc có thể có nhiều lợi thế nếu TQ chịu hậu thuẫn việc soạn thảo một bộ
Quy tắc ứng xử có thực quyền. Nhờ thế, hình ảnh TQ ở trong khu vực sẽ
được nâng cao đáng kể; những lời kêu gọi Hoa Kỳ can thiệp nhiều hơn nữa
trong khu vực sẽ giảm bớt; và nguy cơ xung đột trên một hòn đảo nhỏ bé
nào đó trong biển Đông sẽ dần dần biến mất.
Nhưng,
những khía cạnh hấp dẫn này của một chính sách ngoại giao hợp tác đã bị
khuynh loát bởi bản năng không khoan nhượng của Bắc Kinh về các vấn đề
liên quan đến chủ quyền. “Khi liên quan đến các vấn đề quyền lợi to lớn
và chính trị quan trọng, các thỏa hiệp quốc tế có tác dụng rất hạn chế”,
đó là ý kiến của Zhang Baohui, một Phó giáo sư thuộc Đại học Lingnan
tại Hồng Kông. Ông nói, “Nhìn chung, tôi nghĩ rằng Trung Quốc là cường
quốc muốn duy trì nguyên trạng về các vấn đề trong biển Nam Trung Hoa”.
Zhang nhận xét rằng duy trì nguyên trạng có lợi cho Trung Quốc theo hai
cách: TQ sẽ không cần tạo điều kiện để sớm đạt được một giải pháp lâu
dài, nhưng TQ cũng không muốn mang tiếng là nước tạo ra một cuộc đối
đầu. TQ sẽ chỉ phản ứng mạnh mẽ trước những điều mà TQ coi là những
khiêu khích của các nước khác, như trong cuộc tranh chấp gần đây với
Manila. Đồng thời, Trung Quốc sẽ không dè dặt khi cần nống rộng giới hạn
của một hành vi có thể chấp nhận, chẳng hạn như việc nâng cấp Tam Sa
thành một thành phố, hay việc cấp giấy phép cho các công ty dầu lửa TQ
khoan dầu tại các vùng tranh chấp.
Nhưng mục
tiêu nhiên hậu của Trung Quốc trong việc [theo đuổi bộ Quy tắc ứng xử]
này là gì? “Trung Quốc chỉ muốn mua thêm thời gian, càng kéo dài nguyên
trạng càng lâu càng tốt”, Storey lý luận. “Nhưng nước cờ sau cùng của
Trung Quốc là gì? Tôi không tin bản thân Trung Quốc biết được điều này”.
Điều
đáng buồn là, hiện nay vẫn chưa có một phương án thứ hai (Plan B) để
giải quyết tình hình biển Đông. Trung Quốc và ASEAN hình như đang bị
khóa chặt vào trong một tiến trình vô ích, đó là tiến trình hình thành
một bộ Quy tắc ứng xử; nhưng bộ quy tắc này sẽ không xử lý được các loại
hành vi cần phải thực sự được xử lý tại biển Đông. Thật là tội nghiệp
cho các nhà ngoại giao phải khốn khổ làm việc trong vòng hai năm tới để
soạn thảo một bộ quy tắc như thế. Bộ quy tắc ứng xử này chỉ là một điều
hoang tưởng khác – chỉ là một điều nghe không ổn cả trên lý thuyết lẫn
trong thực hành.
T.M.
Trefor
Moss là một nhà báo độc lập, làm việc tại Hồng Kông. Ông viết về các đề
tài chính trị, quốc phòng và an ninh châu Á, và từng là Biên tập viên
về khu vực châu Á - Thái Bình Dương tại Tuần báo Quốc phòng Jane cho đến
năm 2009.
Nguồn: thediplomat.com
Dịch giả gửi trực tiếp cho BVN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét